Chính sách của Đảng và Nhà nước về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội

nguồn nhân lực

Mục lục

Chính sách của Đảng và Nhà nước về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội

a. Nhóm chính sách kinh tế nhằm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tạo việc làm và phân phối thu nhập

– Chính sách tiền lương và thu nhập:

Mặc dù khoảng cách chênh lệch về mức lương tối thiểu giữa khu vực trong nước và ngoài nước đã thu hẹp, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp. Trên thực tế, do lạm phát cao nên mức lương thực hầu như không tăng cho dù tiền lương danh nghĩa vẫn tăng. Điều này ảnh hưởng đến cuộc sống của đa số lao động trong khu vực làm công ăn lương, kéo theo sự giảm sút về thu nhập chuyển về cho những thành viên gia đình sống phụ thuộc.

Tiền lương thấp đã kéo theo nhiều hệ quả khác, ảnh hưởng phần nào đến thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Ví dụ, nhiều lao động không có khả năng tham gia BHXH, BHYT bắt buộc hay tự nguyện do mức lương quá thấp, chưa đủ chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày. Điều này tạo ra vòng luẩn quẩn giữa thu nhập thấp, mức sống thấp và không có khả năng đầu tư cho giáo dục và y tế. Hạn chế cơ hội học hành cũng có nghĩa là cơ hội để tìm được việc làm có thu nhập cao là rất khó khăn.

Rõ ràng đây là vấn đề lớn cần giải quyết, và nguyên nhân gốc rễ của tiền lương thấp chính là năng suất lao động thấp.

Hiện nay Chính phủ vẫn đang thực hiện cải cách tiền lương và tăng lương tối thiểu theo lộ trình. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi là tăng lương phải là kết quả của tăng năng suất lao động.

– Chính sách phát triển khu vực tư nhân

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII và VIII đều nêu rõ chủ trương là thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhằm mục tiêu giải phóng sức sản xuất, huy động tối đa mọi nguồn lực để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả nền kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân.

Nhà nước đã sửa đổi, ban hành Hiến pháp 1992 với ghi nhận 3 loại hình sở hữu, bảo đảm quyền sở hữu cá nhân đối với tài sản và khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước để đầu tư, kinh doanh.

Một số luật đã được xây dựng, tạo căn cứ pháp lý cho hình thành thị trường các nhân tố sản xuất như Luật Công ty và Doanh nghiệp tư nhân (1991); Luật DNNN (1995); Luật Hợp tác xã (1996); Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1991, sửa đổi năm 1998); Luật Đầu tư nước ngòai tại Việt Nam (1987, sửa đổi năm 1990, 1992, 1996, và năm 2000), luật Đất Đai (1993, 1998), luật Ngân hàng, luật
các tổ chức tín dụng (1997), Bộ luật lao động (1993), luật Thương mại (1997) v.v…

Từ năm 2002, cải thiện môi trường kinh doanh được thể hiện bằng Nghị quyết 14-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị định số 59/2003/NĐ-CP về bãi bỏ một số giấy phép kinh doanh và chuyển một số giấy phép kinh doanh sang quản lý theo hình thức khác. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2005 đã tạo một hành lang pháp lý chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế chứ không chỉ riêng cho khu vực tư nhân như ở Luật Doanh nghiệp 1999.

Về thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế TNDN đã xác định mức thuế suất thấp hơn, còn 25%, và áp dụng thống nhất, không phân biệt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nhờ đó giảm bớt nghĩa vụ nộp thuế cho các cơ sở kinh doanh, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tích tụ vốn đầu tư phát triển. Đồng thời, các quy định về ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trước đây nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật đã được thống nhất quy định trong Luật này.

Về chính sách tín dụng cho khu vực tư nhân, tình trạng phân biệt đối xử đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng dần được xóa bỏ.

Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó đẩy mạnh khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân đã tạo động cơ để huy động nguồn lực đa dạng của xã hội cho phát triển. Nhờ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế tương đối cao và liên tục trong giai đoạn 1991-1995, tạo việc làm, cải thiện mức sống nhân dân.

[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm: Các bài học kinh nghiệm về giải quyết mối quan hệ giữa phân phối thu nhập và tăng trưởng kinh tế[/message]

– Chính sách giải quyết việc làm cho người lao động

Chương trình Quốc gia về giải quyết việc làm (Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ) là một trong những chính sách quan trọng góp phần ổn định kinh tế – xã hội của Việt Nam. Chương trình được thực hiện ở phạm vi quốc gia, trên cơ sở thành lập Quỹ quốc gia giải quyết việc làm với nguồn chính từ ngân sách nhà nước (NSNN) để cho vay với lãi suất thấp đối với các đối tượng có dự án tạo việc làm. Với chương trình này, Nhà nước bước đầu đã tạo sự bình đẳng về cơ hội cho mọi người dân trong tiếp cận nguồn vốn vay để tạo việc làm, giúp cho người dân có công việc và thu nhập để ổn định cuộc sống nói chung.

Bên cạnh chính sách về giải quyết, tạo việc làm cho người lao động, Nhà nước còn ban hành một số chính sách bước đầu hình thành khung pháp lý cho thị trường lao động như Bộ Luật lao động (1994), Nghị định 58/CP quy định cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài tại Việt Nam (1996); Nghị định 85/CP về quy chế sử dụng và quản lý lao động Việt Nam làm việc cho tổ chức nước
ngoài (1998)…

Ngoài chương trình Quốc gia về giải quyết việc làm, Nhà nước cũng đã thực hiện nhiều chính sách khác như các Chương trình về xoá đói giảm nghèo, chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình xuất khẩu lao động… qua đó giúp cho người lao động có cơ hội tìm kiếm việc làm.

Bên cạnh các chính sách về tạo việc làm, Nhà nước cũng ban hành nhiều chính sách về đào tạo lao động, dạy nghề cho những người yếu thế như Quyết định hỗ trợ dạy nghề cho đối tượng là học sinh dân tộc thiểu số và lao động nông thôn (QĐ 267/2005/QĐ-TTg), Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg và Chỉ thị số 11/2006/CT-TTg về giải pháp hỗ trợ dạy nghề và việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, đề án hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm cho thanh niên (QĐ số 103/2008/QĐ-TTg). Nhiều chính sách hỗ trợ và thúc đẩy tạo việc làm đã được ban hành và triển khai như thành lập Ngân hàng chính sách xã hội thực hiện chức năng cho vay vốn tạo việc làm cho sinh viên; hỗ trợ doanh nghiệp cho vay vốn tạo việc làm…

Để tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh cho các thành phần kinh tế họat động, Bộ Luật lao động lần đầu tiên được ban hành vào năm 1994 và sửa đổi hai lần vào năm 2002 và năm 2006. Đây là văn bản pháp luật cơ bản điều chỉnh các hành vi liên quan đến thuê lao động, đào tạo sử dụng và các chế độ chính sách đối với lao động. Một điểm đáng chú ý của Bộ luật này là Nhà nước quy định các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm để kịp thời trợ cấp cho người lao động khi họ bị mất việc làm.

Gần đây, Nhà nước đã ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm 2009), đây là bước đi cần thiết hoàn thiện chính sách đảm bảo xã hội, tạo công bằng xã hội cho người lao động trong quá trình tăng trưởng.

Thực tế này hàm ý rằng khi mà trình độ phát tiển của nền kinh tế còn thấp, đời sống của người dân còn chưa cao, hệ thống an sinh xã hội cũng chưa đảm bảo được cuộc sống tối thiểu cho những lao động không có việc làm thì những người này không thể chịu cảnh thất nghiệp dài hạn, họ phải chấp nhận làm một số công việc nào đó, thường là trong khu vực phi chính thức với thu nhập thấp, bấp bênh để nuôi sống bản thân và gia đình. Điều này cho thấy vai trò “bà đỡ” của khu vực phi chính thức trong các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam trong bối cảnh kinh tế suy thoái.

Ở Việt Nam, nguồn thu nhập chủ yếu của các hộ dân cư là từ lao động, vì vậy việc quan tâm giải quyết vấn đề lao động – việc làm là một trong những nhân tố cơ bản để tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Giải quyết việc làm theo mục tiêu gắn tăng trưởng với tiến bộ, công bằng xã hội là mở rộng điều kiện, cơ hội tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập và mức sống cho người lao động. Rõ ràng, với xu hướng dân số vàng, số người trong độ tuổi lao động tăng, nguồn nhân lực là lợi thế phát triển quan trọng của nước ta hiện nay. Đồng thời, nền kinh tế tăng trưởng tốt có tác động tích cực đến vấn đề giải quyết việc làm. Sự bùng phát của khu vực kinh tế tư nhân, nhất là trong những năm gần đây, đã tạo ra nhiều việc làm mới. Bên cạnh đó, cùng sự chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu lao động có sự điều chỉnh rõ rệt từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ.

– Chính sách thuế

Một số Luật thuế được điều chỉnh nhằm tạo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, công bằng xã hội như Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân… Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp được sửa đổi hai lần vào năm 2003 và 2008 thay thế cho Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997. Theo đó, mức thuế suất đã được điều chỉnh từ 32% xuống còn 28% và 25% và được áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp trong và ngòai nước. Ngòai ra, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng quy định một nhóm tiêu chí thống nhất áp dụng mức thuế suất ưu đãi cho cả hai loại hình doanh nghiệp trên. Điều này thể hiện rất rõ quan điểm thống nhất của Nhà nước ta về công bằng trong xã hội.

Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được sửa đổi nhằm từng bước thu hẹp khoảng cách giữa thuế suất áp dụng đối với công dân Việt Nam với người nước ngòai cư trú ở Việt Nam. Năm 2007, Luật thuế thu nhập cá nhân thay thế Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, quy định một hệ thống thuế chung, mở rộng phạm vi áp dụng của thuế thu nhập cá nhân và có hiệu lực từ năm 2008. Đây cũng là một chính sách có tác dụng tái phân phối thu nhập và để hỗ trợ đối tượng yếu thế trong xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Sau gần 20 năm thực hiện cải cách từ năm 1991 đến nay, chính sách thuế đã được đổi mới theo hướng thích ứng dần với cơ chế thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thuế đã bảo đảm nguồn tài chính chủ yếu để thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Trong hệ thống chính sách thuế đã từng bước giảm dần sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu; thủ tục hành chính trong thu nộp thuế được đơn
giản hóa, công tác quản lý thuế được đổi mới và dần được hiện đại hóa.

Thuế đã trở thành công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Các luật và chính sách thuế mới đều hướng tới khuyến khích mạnh mẽ phát triển, sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế, tăng cường xuất khẩu. Ðể góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hệ thống chính sách thuế đã tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất công nghiệp,
dịch vụ; các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; vào vùng nông thôn, địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn; các sản phẩm công nghiệp trọng điểm, và các lĩnh vực giáo dục, y tế…, từ đó tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội. Ðây là điều kiện để thu ngân sách bền vững, đồng thời khi nguồn thu ngân sách tăng, Nhà nước càng có điều kiện đầu tư
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý.

– Chính sách đầu tư công

Trong thời kỳ đổi mới, đầu tư công chuyển mạnh sang đầu tư cho phát triển các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, cho sự nghiệp giáo dục, y tế, xoá đói, giảm nghèo… góp phần quan trọng vào thực hiện tăng trưởng gắn với tiến bộ, CBXH.

Trong giai đoạn từ 2001-2010, chính sách có tác động nhiều nhất đến quản lý và sử dụng đầu tư công là chính sách phân cấp đầu tư và phân cấp ngân sách. Luật đầu tư năm 2005, Luật xây dựng năm 2003 quy định phân cấp thẩm quyền quyết định các dự án đầu tư sử dụng vốn NSNN. Theo đó Bộ trưởng và Chủ tịch UBND cấp Tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương được quyền quyết định đối với các dự án nhóm A, B & C. Tùy theo điều kiện cụ thể của địa phương, Sở/ngành địa phương và UBND quận/huyện được UBND Tỉnh/thành phố được uỷ quyền hay phân cấp quyết định đầu
tư đối với dự án nhỏ hơn 5 tỷ đồng và UBND xã/phường được quyết định đối với dự án đầu tư nhỏ hơn 3 tỷ đồng 5. Đối với các dự án thuộc Bộ, các đơn vị trực thuộc Bộ cũng được uỷ quyền ra quyết định đầu tư đối với từng loại dự án cụ thể.

Phân cấp NSNN có ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý, sử dụng đầu tư, đó là vì địa phương cần có khả năng đáp ứng vốn đối ứng. Luật NSNN năm 2002 quy định rõ NSTƯ do Quốc hội và NSĐP do HĐND cấp Tỉnh phê duyệt. Luật cũng quy định tăng quyền chủ động hơn cho UBND địa phương các cấp trong điều hành ngân sách địa phương, cụ thể trong lĩnh vực thu và chi. Luật NSNN năm 2002 cũng tăng tính ổn định cho các cấp phân cấp ngân sách như ngân sách Tỉnh được cố định trong vài năm, trong khi đó một số Tỉnh chưa cân đối được ngân sách sẽ được nhận bổ sung
từ ngân sách trung ương.

b) Nhóm chính sách xã hội có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập

– Chính sách xóa đói giảm nghèo

Xoá đói giảm nghèo (XĐGN) là một trong các mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Chính sách XĐGN đã được Nhà nước thực hiện trên phạm vi cả nước từ năm 1992, đặc biệt được nhấn mạnh trong Chỉ thị số 23-CT/TƯ ngày 29/11/1997 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và từ năm 1998 công tác XĐGN đã trở thành Chương trình mục tiêu Quốc gia của cả nước. Ngoài ra, Nhà nước ta cũng lồng ghép nội dung XĐGN vào các chương trình mục tiêu Quốc gia khác như giải quyết việc làm, phủ xanh núi đồi trọc v.v… Tuy nhiên, các chính sách trong thời kỳ này tập trung XĐGN thông qua tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho người dân mà chưa tạo lập được một khuôn khổ chính sách thực sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và XĐGN, cải thiện các mục tiêu xã hội.

Bên cạnh chương trình Quốc gia về XĐGN và Chiến lược lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN, Nhà nước ta còn ban hành nhiều chính sách khác nhau về hỗ trợ cho người nghèo như:

– Chính sách định canh định cư và di dân phát triển kinh tế mới. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chủ trì thực hiện chương trình, với phương thức thực hiện là lồng ghép các nguồn vốn ở địa phương để thực hiện các dự án sắp xếp dân cư, ưu tiên các hộ sống ở địa bàn khắc nghiệt, thiếu đất sản xuất, thiếu nước sinh hoạt chuyển sang những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội phát triển hơn nhằm ổn định cuộc sống lâu dài cho người dân qua đó giúp cho người dân có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống.

– Chính sách ổn định và phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với chế biến tiêu thụ sản phẩm thực hiện bằng các nguồn vốn lồng ghép với chương trình 135, chủ yếu là hỗ trợ về giống cây trồng, vật nuôi và xây dựng các mô hình sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

– Chính sách giao đất, giao rừng (Nghị định số 163/NĐ-CP ngày 16/11/1999, Quyết định số 178/QĐ-TTg ngày 12/11/2001) cho các hộ gia đình. Nhờ vậy, kinh tế lâm nghiệp có bước chuyển biến quan trọng từ khai thác tự nhiên là chủ yếu chuyển sang trồng mới, khoanh nuôi và bảo vệ rừng.

– Chính sách hỗ trợ đất sản xuất theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về giải quyết khó khăn về đất đai cho đồng bào dân tộc. Đối với đồng bào dân tộc nghèo chưa có chỗ ở, Nhà nước hỗ trợ giúp 5 triệu đồng/hộ để làm nhà.

– Chính sách trợ giá, trợ cước góp phần quan trọng bình ổn giá cả thị trường, cải thiện và nâng cao đời sống, thúc đẩy phát triển sản xuất đồng bào miền núi, vùng xa.

– Chính sách tín dụng được thực hiện bằng nhiều nguồn vốn khác nhau thông qua các tổ chức Ngân hàng Nhà nước, các dự án, các mô hình tín dụng đối với vùng núi, vùng xâu, vùng xa, đặc biệt là các nguồn vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Thông qua ngân hàng, người dân chỉ phải vay với lãi suất thấp (0,5%/tháng), thời hạn vay từ 12 – 60 tháng. Với nguồn vốn tín dụng này, hàng triệu lượt hộ nghèo có cơ hội tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước, qua đó có thể giúp đời sống vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Ngoài ra, ngân hàng chính sách còn cho vay qua Quỹ Quốc gia về giải quyết việc làm và cho đối tượng chính sách nghèo vay xuất khẩu lao động.

– Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn, Chương trình 135 giai đoạn 2 (2006-2010). Các chương trình trên đây đều nhằm hỗ trợ người lao động không có được việc làm trong các khu vực chính quy có điều kiện, cơ hội tìm, tạo việc làm gắn với quá trình tăng trưởng.

Trong nền kinh tế thị trường, số hộ nghèo đói là do họ không có điều kiện tiếp cận với các cơ hội việc làm, không được hưởng điều kiện thuận lợi từ cơ sở hạ tầng xã hội mang lại, sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, thường xuyên gặp các rủi ro, thiên tai, nạn dịch. Một số hộ khó khăn do thiếu phương pháp làm ăn kinh tế hay gặp tai nạn, hoàn cảnh éo le, một số khác do sa đà vào các tệ nạn, lười biếng… Song do hoàn cảnh lịch sử, có không ít những gia đình thương binh liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, có công với cách mạng, nay gặp hoàn cảnh khó khăn, cuộc sống khá thấp, thậm chí rơi vào tình trạng nghèo khổ. Họ thiếu vốn, lao động và cả sức khỏe, nhiều người không được đào tạo nghề, hoặc có nghề nhưng ở trình độ thấp, không đáp ứng được đòi hỏi của kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, việc làm giàu phi pháp của một số người cũng đẩy một số khác vào sự bần cùng. Thực tế này cho thấy một trong nhiều nguyên nhân của đói nghèo xuất phát từ bất công xã hội. Giảm thiểu tỷ lệ đói nghèo được coi là những dấu hiệu quan trọng của tiến bộ và công bằng xã hội. Lợi ích tăng trưởng kinh tế được phân phối rộng khắp, thể hiện ở chỗ tỷ lệ nghèo của tất cả các vùng và các bộ phận dân cư đều giảm xuống.

– Chính sách y tế

Năm 1991, các chương trình mục tiêu Quốc gia đã được đưa ra nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của y tế Nhà nước; các mục tiêu được thiết lập và huy động nguồn lực một cách chiến lược giữa các vùng trong cả nước. Năm 1993, Chính phủ đưa ra chương trình bảo hiểm y tế Quốc gia, đầu tiên là bảo hiểm bắt buộc dành cho cán bộ nhà nước, đối tượng chính sách và người có công và từng bước mở rộng tỷ lệ bao phủ bảo hiểm cho các đối tượng ở khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho các đối tượng tự nguyện. Năm 1995, Chính phủ xoá dần trợ cấp và đưa ra khung giá viện phí bao gồm chi phí khám chữa bệnh và các kỹ thuật xét nghiệm.

Những đổi mới về chính sách y tế được tiếp tục trong giai đoạn từ 2001 đến nay, như Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 với việc phân cấp cho địa phương có quyền hạn trong việc lập kế hoạch và thực hiện các quyết định chi tiêu trong lĩnh vực y tế của địa phương.

Bước sang giai đoạn 2001-2010, trên cơ sở thành công của giai đoạn trước, bước sang giai đoạn này, ngành y tế tiếp tục thu được một số thành tựu quan trọng. Mặc dù Việt Nam là một nước có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, nhưng các chỉ số y tế đạt được trong giai đoạn hơn 20 năm qua ngang với những quốc gia có mức độ phát triển cao hơn hẳn. Đây là kết quả tích cực của thực hiện tăng trưởng đi đôi với cải thiện các chỉ tiêu xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, với mức thu nhập đầu người như hiện nay và xem xét về mức thu nhập đầu người và chi tiêu y tế ở các nước khác, tổng chi tiêu y tế Việt Nam tương đương so với các nước trong khu vực. Nhà nước còn trực tiếp chi trả phí bảo hiểm cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn hay trẻ em dưới 6 tuổi. Sau 15 năm triển khai chính sách bảo hiểm, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm đạt khoảng 40% tổng dân số.

– Chính sách giáo dục, đào tạo

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát triển giáo dục, đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Luật Giáo dục 1998, sửa đổi năm 2005, trong đó quy định rõ mục tiêu phổ cập giáo dục cấp tiểu học, tiến tới phổ cập trung học cở sở. Đây là chính sách tác động trực tiếp đến người nghèo, người yếu thế nhằm thực hiện tiến bộ, CBXH.

Giáo dục và đào tạo luôn được coi là yếu tố nền tảng cho sự phát triển đất nước. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 cũng như Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN đã tạo cơ sở để đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo, thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ về giáo dục và giảm bất bình đẳng về cơ hội học hành giữa các vùng, giữa nhóm dân tộc và của người nghèo.

Sự bổ sung, thay đổi chính sách một mặt đáp ứng được yêu cầu, thực tiễn phát triển của nền giáo dục nước nhà, một mặt tạo ra động lực mới, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới, đảm bảo sự phát triển bền vững, dần xóa đi khoảng cách giữa các vùng, miền trong cả nước.

Chính sách của Đảng và Nhà nước về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

2 thoughts on “Chính sách của Đảng và Nhà nước về kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội

  1. Pingback: Đánh giá chung về thực trạng mối quan hệ giữa bất bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế - Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

  2. Pingback: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đảm bảo gắn kết hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội - Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?