Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội tỉnh Hải Dương

hệ thống cây trồng

Mục lục

Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội tỉnh Hải Dương

Tỉnh Hải Dương được tách ra từ tỉnh Hải Hưng (gồm tỉnh Hải Dương và Hưng Yên) từ ngày 01/01/1997. Về đơn vị hành chính, tỉnh Hải Dương bao gồm 01 thành phố đô thị loại II trực thuộc tỉnh (thành phố Hải Dương), 01 thị xã (Chí Linh) và 10 huyện (Bình Giang, Cẩm Giàng, Gia Lộc, Kim Thành,  Kinh Môn, Nam Sách, Ninh Giang, Thanh Hà, Thanh Miện, Tứ Kỳ), với tổng số 229 xã, 23 phường, 13 thị trấn.

1. Đặc điểm tự nhiên

1.1. Vị trí địa lý

Tỉnh Hải Dương nằm ở trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng, trong tọa độ địa lý từ 20o41’10” đến 21o14’20” vĩ độ Bắc, 106o07’20” đến 106o36’35” kinh độ Đông [12]. Tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (nằm trong tam giác kinh tế phía Bắc: Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh), phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Đông và Đông Nam tiếp giáp thành phố Hải Phòng, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Tây Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh.

Với vị trí đó, Hải Dương đóng vai trò “cầu nối” giữa thủ đô Hà Nội (cách thành phố Hải Dương 57km về phía Tây) với thành phố cảng Hải Phòng (cách thành phố Hải Dương 45km về phía Đông) và thành phố du lịch Hạ Long (cách thành phố Hải Dương 93km về phía Đông Bắc). Trên địa bàn tỉnh có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng của quốc gia, như quốc lộ 5, 10, 18, 37, 38. Hệ thống đường thủy bao gồm hệ thống sông Thái Bình, sông Luộc, các trục sông Bắc Hưng Hải và An Kim Hải. Vị trí địa lý kinh tế thuận lợi cùng hệ thống giao thông đường bộ, thuỷ, sắt khá hoàn chỉnh, Hải Dương có nhiều lợi thế trong giao lưu, trao đổi thương mại với các đỉnh tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc (thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh) cũng như các tỉnh lân cận.

1.2. Điều kiện tự nhiên

Diện tích tự nhiên của Hải Dương là 1.651 km2 (đứng thứ 51/63 tỉnh thành cả nước) [4], địa hình nghiêng, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng nghiêng của đồng bằng Bắc Bộ [12]. Với đặc điểm này, Hải Dương được chia làm hai kiểu địa hình, là đồng bằng tích tụ và đồi núi thấp.

Địa hình đồi núi thấp phân bố chủ yếu ở phía Bắc, Đông Bắc và chiếm khoảng 15,9% diện tích tự nhiên của tỉnh, bao gồm 13 xã thuộc thị xã Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn [12]. Đây là vùng tập trung nhiều chủng loại khoáng sản, cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và phù hợp với trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp. Địa hình đồng bằng được cấu thành bởi các trầm tích Đệ tứ có nguồn gốc biển và sông hồ, chủ yếu do đất phù sa sông Thái Bình bồi đắp, chiếm khoảng 84% diện tích tự nhiên [12], là địa bàn sinh sống chủ yếu của nhân dân trong tỉnh, thích hợp phát triển các loại cây trồng, đặc biệt là cây ăn quả như vải, nhãn, cam, chuối.

Hải Dương nằm trong vùng khí hậu đồng bằng Bắc Bộ, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hàng năm có 2 mùa rất rõ rệt với mùa đông lạnh, ít mưa và mùa hè nóng ấm, mưa nhiều. Lượng mưa trung bình trong năm khoảng 1.700mm. Nhiệt độ không khí trung bình các tháng trong năm khoảng 23 – 24oC, tổng tích ôn cả năm khoảng  8.500oC.  Số  giờ  nắng  khoảng  1.350giờ/năm,  tổng  bức  xạ  vượt  quá 100KcaL/cm2/năm. Độ  ẩm không khí khá cao, dao động từ 80% đến 90% [12].

Điều kiện khí hậu đó rất thích hợp cho trồng lúa, cây thực phẩm, cây ăn quả – là nguồn nguyên liệu quan trọng phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm.

Dân số trung bình của Hải Dương ước năm 2010 là 1.716 nghìn người (chiếm khoảng 2% dân số cả nước và 8,7% dân số vùng đồng bằng sông Hồng, đứng thứ 5/11 tỉnh, thành phố thuộc vùng đồng bằng sông Hồng và 11/63 tỉnh thành cả nước), mật độ dân số trung bình là 1.039 người/km2. Dân số thành thị là 374,4 nghìn người (chiếm 21,8%), dân số nông thôn là 1.341,6 nghìn người (chiếm 78,2%) [4]. Dân số đông là tiềm năng về nhu cầu sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, là nhân tố thúc đẩy các ngành sản xuất hàng tiêu dùng phát triển, đồng thời cũng cung cấp cho các ngành kinh tế một nguồn lao động dồi dào (khoảng 63% dân số trong độ tuổi lao động) [5], lao động trẻ, có nền tảng rất cơ bản là truyền thống hiếu học, cần cù, sáng tạo.

1.3. Tài nguyên đất

Tổng diện tích đất là 165.477 ha, trong đó đất nông nghiệp 106.577 ha,  đất phi nông nghiệp 58.165 ha, đất chưa sử dụng 735 ha [5]. Để phát triển công nghiệp, Hải Dương cần huy động và sử dụng lượng lớn nguồn lực đất đai. Trong điều kiện công nghiệp phát triển còn khá manh mún và đất cho sản xuất nông nghiệp giảm dần do chuyển đổi đang đặt ra những vấn đề bức xúc về hiệu quả sử dụng đất, bảo vệ môi trường và an ninh lương thực của tỉnh.

1.4. Tài nguyên nước

Tỉnh Hải Dương có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, với tổng số 14 sông lớn có chiều dài khoảng 500 km và trên 2.000 km sông nhỏ chảy theo hướng chính là Tây bắc – Đông nam, lớn nhất là sông Thái Bình qua địa phận tỉnh với chiều dài 64 km (điểm đầu từ phường Phả Lại, thị xã Chí Linh và điểm cuối tại xã Vĩnh Lập, huyện Thanh Hà) cùng với các phân lưu sông Kinh Thầy, sông Kinh Môn, sông Lai Vu, sông Gùa, sông Hàn Mẫu, sông Mạo Khê… và các sông thuộc hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải. Hệ thống các sông chính có dòng chảy tự nhiên, phụ thuộc vào mùa mưa, lũ trên lưu vực và sự điều tiết của các hồ chứa ở thượng nguồn sông Thái Bình, tập trung chủ yếu ở các huyện phía Đông nam của tỉnh.

Trên địa bàn tỉnh còn có nhiều hồ, ao tự nhiên và nhân tạo, là nơi trữ nước và vận chuyển nước trên bề mặt, góp phần nuôi dưỡng động, thực vật và điều hòa khí hậu trong vùng.

1.5. Tài nguyên khoáng sản

Khoáng sản tỉnh Hải Dương khá đa dạng, có giá trị nhất là loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế tỉnh.

Qua nghiên cứu, điều tra, tìm kiếm thăm dò khoáng sản trong phạm vi tỉnh đã phát hiện được 24 loại hình khoáng sản bao gồm: than đá, sắt, đồng, thủy ngân, bauxit, phosphorit, than bùn, sét chịu lửa, dolomit, keratophyr, đá vôi xi măng, sét silic phụ gia xi măng, sét gạch ngói, cát xây dựng, đá vôi xây dựng, cuội kết thạch anh, thạch anh tinh thể, cuội sỏi, quarzit. Trong đó khoáng sản trọng tâm là sét gốm sứ và vật liệu xây dựng. Đã xác định được 91 mỏ và điểm quặng được chia làm 4 nhóm: Nhóm nhiên liệu; Nhóm khoáng sản kim loại; Nhóm khoáng sản không kim loại và khoáng chất công nghiệp; Nhóm nước nóng – khoáng [12]. Trong số các khoáng sản nêu trên, một số đã được khai thác sử dụng với qui mô lớn như sét chịu lửa, đá vôi xi măng, sét xi măng, bauxit, số còn lại cần tiếp tục nghiên cứu khai thác để đáp ứng yêu cầu phát triển một số ngành công nghiệp trong tỉnh.

Với những đặc điểm tự nhiên trên, Hải Dương đã hội tụ những thuận lợi cơ bản cho phát triển kinh tế – xã hội, đó cũng là điều kiện tiền đề quan trọng để nâng cao NLCT của tỉnh.

2. Đặc điểm kinh tế – xã hội

Sau gần 15 năm tái lập tỉnh (1997 – 2011), với xuất phát điểm ban đầu là một tỉnh nông nghiệp lạc hậu, Hải Dương đã và đang phát triển kinh tế – xã hội theo hướng công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH). Đặc điểm kinh tế – xã hội của Hải Dương được khái quát trên các mặt sau đây.

2.1. Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế

Về tăng trưởng kinh tế

Theo báo cáo của Cục Thống kê tỉnh, tình hình phát triển kinh tế – xã hội năm 2022 của tỉnh Hải Dương đạt được một số kết quả đáng ghi nhận; kinh tế có sự phục hồi khá, hầu hết các ngành sản xuất, kinh doanh trở lại hoạt động bình thường. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) ước tăng 9,0% (KH năm từ 10% trở lên); thu ngân sách nhà nước vượt 30% dự toán năm; thực hiện tốt các chính sách xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và ổn định.

Ước tính, tăng trưởng kinh tế (GRDP theo giá 2010) tỉnh Hải Dương năm 2022 đạt 9,0%; cao thứ 27/63 cả nước và thứ 8/11 Vùng Đồng bằng sông Hồng. Ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 3,4%; trong đó, ngành nông nghiệp tăng 2,9% tương đương tăng 231 tỷ đồng; ngành thủy sản tăng 6,0% tương đương tăng 83 tỷ đồng; riêng hoạt động dịch vụ nông nghiệp và lâm nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ nên ít tác động đến tăng trưởng của ngành. – Ngành công nghiệp, xây dựng tăng 11,8%, đóng góp 6,29 điểm% vào tăng trưởng. Sản xuất công nghiệp phục hồi mạnh mẽ trong quý I nhưng bắt đầu chậm lại trong quý II và quý III khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng và thị trường thế giới có nhiều biến động. Quy mô nền kinh tế năm 2022 (theo giá hiện hành) ước đạt 169.179 tỷ đồng, đứng thứ 11/63 toàn quốc; GRDP bình quân đầu người ước tính đạt 86,9 triệu đồng, tương đương 3.746 USD.

Tốc độ tăng trưởng khá của nền kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng, cùng với giá trị chiếm tỷ trọng lớn trong GDP chứng tỏ sức đóng góp của công nghiệp vào tăng trưởng có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, do nền kinh tế Hải Dương có xuất phát điểm thấp, vấn đề chất lượng tăng trưởng cần đặc biệt quan tâm mới đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh và bền vững.

Về cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế của tỉnh đang được chuyển dịch theo hướng giá trị sản xuất công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn.

Chuyển từ cơ cấu 27,1% – 43,6% – 29,3% năm 2005 sang 23,0% – 45,4% – 31,6% năm 2010 (Biểu đồ 2.2). Cơ cấu kinh tế này phản ánh trình độ phát triển còn ở mức thấp với tỷ trọng nông nghiệp trên 20%. Mặc dù có sự thu hẹp lĩnh vực nông nghiệp theo hướng cơ cấu kinh tế hợp lý nhưng tốc độ chuyển dịch rất chậm (cơ cấu của cả nước 20,6% – 41,1% – 38,3%).

2.2. Cơ cấu lao động và mức sống dân cư

Nguồn nhân lực luôn được coi là lợi thế quan trọng cho phát triển kinh tế của Hải Dương trong giai đoạn 2006 – 2010 và những năm tiếp theo. Cơ cấu lao động phản ánh trình độ nguồn nhân lực và quá trình CNH của tỉnh.

Cơ cấu lao động

Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 971,6 ngàn người. Cơ cấu lao động theo lĩnh vực nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ của tỉnh được chuyển từ 70,5% – 15,8% – 13,7% năm 2005 thành 54,5% – 27,3% – 18,2% năm 2010 (xem Biểu đồ 2.3), của cả nước là 50,0% – 23,0% – 23,0%.

Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm song vẫn chiếm tới 54,5% và lao động công nghiệp và dịch vụ chiếm 45,5%. Như vậy, tuy có lợi thế với nguồn lao động dồi dào nhưng chủ yếu là lao động phổ thông trong khi lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ chưa cao, dẫu đã tăng từ 26,6% năm 2005 lên 41% năm 2010 [4]. Bên cạnh đó, lực lượng lao động quản lý cũng bộc lộ nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp. Thực trạng này đang đặt ra vấn đề cấp thiết cho lĩnh vực đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp nói riêng, phát triển kinh tế – xã hội nói chung trong giai đoạn tới.

Mức sống dân cư

Do kinh tế Hải Dương liên lục tăng trưởng khá, thực hiện tốt các chương trình xoá đói giảm nghèo, khuyến khích cá nhân và hộ gia đình sản xuất kinh doanh giỏi, duy trì và phát triển đa dạng ngành nghề, tạo thêm nhiều việc làm mới nên mức sống người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao qua các năm. Biểu đồ 2.4 cho thấy, năm 2010 đạt mức 1,274 triệu đồng/người/tháng, gấp 2,1 lần năm 2006.

Mức sống dân cư tăng là nhân tố tác động cầu tiêu dùng tăng, kích thích đầu tư sản xuất phát triển. Khi thu nhập tăng thì nhu cầu đầu tư sẽ tăng lên, tăng trưởng kinh tế cùng mức thu nhập tăng có tác động tích cực tới đầu tư tư nhân, tạo hiệu ứng quan trọng trong phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế của tỉnh.

Theo lý thuyết về NLCT ở cấp độ vĩ mô, năng suất là nội hàm có ý nghĩa nhất của NLCT [55]. Ở cấp tỉnh, năng suất lao động cho thấy hiệu quả sản xuất, là một trong những yếu tố phản ánh môi trường kinh doanh, NLCT của tỉnh đó. Năng suất lao động (theo giá so sánh) thấp, phản ánh chất lượng và hiệu quả sản xuất thấp, mức sống của người dân sẽ ít được cải thiện. Ngược lại, NSLĐ cao cùng với Hệ số đầu tư tăng trưởng (ICOR – Incremental Capital Output Rate) hợp lý là thước đo cơ bản phản ánh được hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như chất lượng tăng trưởng tốt của một ngành hay một địa phương.

Biểu đồ 2.5 cho thấy, năng suất lao động xã hội (theo giá so sánh 1994) của tỉnh tăng liên tục trong các năm giai đoạn 2006 – 2010, với mức bình quân khoảng 9,1%/năm. Trong đó, tuy công nghiệp và xây dựng là ngành đạt năng suất lao động cao nhất nhưng tốc độ tăng không ổn định, thậm chí giảm trong nhẹ vào năm 2007 và giảm mạnh năm 2009. Năm 2010, NSLĐ ngành công nghiệp – xây dựng đạt 27,3 triệu đồng/người thấp  hơn năm 2005 (28 triệu đồng/năm). NSLĐ  ngành nông nghiệp và dịch vụ liên tục tăng nhẹ nhưng ngành dịch vụ có giá trị cao hơn NSLĐ xã hội bình quân. Việc NSLĐ ngành công nghiệp giảm một phần bởi lực lượng lao động từ lĩnh vực nông nghiệp chuyển sang làm trong ngành công nghiệp khi được đào tạo có tay nghề. Đây là sự dịch chuyển tất yếu khi Hải Dương chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp. Tuy nhiên cùng với sự dịch chuyển này cần phải có những chính sách hỗ trợ chuyển đổi từ chính quyền cấp tỉnh [17].

2.3. Hệ thống kết cấu hạ tầng chủ yếu của nền kinh tế

Những năm qua, Hải Dương đạt thành tựu khá ấn tượng trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các kết cấu hạ tầng khác của nền kinh tế.

Về hệ thống giao thông

Hệ thống giao thông của tỉnh gồm 3 loại hình chính: đường bộ, đường sắt và đường thuỷ nội địa.

Hệ thống đường nội bộ tỉnh tương đối tốt so với các tỉnh lân cận và mức trung bình của cả nước. Các trục đường chính được trải nhựa và nâng cấp, các đường giao thông nông thôn được bê tông hoá hoặc gạch hoá. 100% số xã có đường ôtô đến trung tâm xã. Mạng lưới giao thông đường bộ của tỉnh gồm 10.721 km, trong đó có 2.200 km đường ô tô. Chất lượng đường dù ở mức khá nhưng để theo kịp yêu cầu phát triển rất cần được cải tạo, nâng cấp, nhất là hệ thống giao thông nông thôn.

Hải Dương có 71,2 km đường sắt đi qua, gồm tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phòng có 46,3 km qua tỉnh, Kép – Bãi Cháy (8,9 km), tuyến Bến Tắm – Cổ Thành (Chí Linh) dài 16 km chuyên dùng cho Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại. Các tuyến đường sắt đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho lưu chuyển giữa Hải Dương và các tỉnh khác cũng như trao đổi hàng hoá xuất khẩu qua cảng Hải Phòng, Quảng Ninh. Tuy nhiên, hệ thống đường sắt có chất lượng thấp do xây dựng từ lâu nên tiêu chuẩn kỹ thuật không còn phù hợp dù đã được cải tạo nhiều lần.

Tỉnh có nhiều sông lớn chảy qua, tạo thành một mạng lưới đường thuỷ liên hoàn thuận lợi giữa tỉnh với các tỉnh phía Bắc, cũng như với hệ thống cảng biển quốc gia. Tổng số có 12 tuyến sông do TW quản lý dài 274,5 km, 06 tuyến sông địa phương quản lý dài 122 km. Tổng chiều dài các tuyến sông được sử dụng vào mục đích vận tải khoảng 393,5 km. Các hoạt động khai thác trên hệ thống sông chỉ mới hình thành theo phương thức tự nhiên. Tàu thuyền, phương tiện chỉ dẫn chưa được hiện đại hoá và các đập, luồng lạch chưa được chưa được cải tạo, nạo vét thường xuyên nên hạn chế khả năng lưu thông. Trên địa phận tỉnh có nhiều cảng sông với 29 bến xếp dỡ hàng hoá dọc theo các sông, trong đó lớn nhất là cảng Cống Câu có công suất 250 nghìn tấn/năm. Ngoài các tuyến sông chính còn có hệ thống sông nội đồng phân bố đều trên lãnh thổ tỉnh, nếu được cải tạo, nâng cấp có thể đưa vào phục vụ cho thuỷ lợi và vận tải thuỷ, đảm bảo lưu thông thông suốt đến tận các hộ sản xuất kinh doanh.

Về hệ thống cấp điện

Mạng lưới điện của tỉnh phát triển nhanh, trình độ điện khí hoá cao so với các tỉnh trong vùng. Đến năm 2005, toàn tỉnh đã có 100% số xã có điện và dùng điện. Trên địa bàn tỉnh có Nhà máy nhiệt điện Phả Lại công suất 1.040MW và gần Nhà máy nhiệt điện Uông Bí – Quảng Ninh, Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng nên có nguồn cung cấp điện rất thuận lợi và khá ổn định. Hệ thống cung cấp điện của tỉnh đến  năm  2010  đã  có:  07  trạm  biến  áp  110/35kV  với  công  suất  tổng  cộng 285.100kVA; 13 trạm biến áp 35/10kV với công suất tổng cộng 385.610kVA; hơn 1.000 trạm biến áp 35 (10)/0,4kV với công suất tổng cộng lên tới 384.100kVA; 185km đường dây 110kV, 1.370 km đuờng dây trung thế 35, 10kV và hơn 4.000 km đường dây hạ thế.

Về hệ thống cấp, thoát nước

Đến năm 2010, hệ thống cấp nước cơ bản đã bao phủ hầu hết các đô thị  và khu  vực  lân  cận  trên  địa  bàn  tỉnh.  Tổng  công  suất  các  nhà  máy đạt  khoảng 100.000m3/ngày đêm, nhìn chung đã đáp ứng được nhu cầu hiện tại cho các khu vực sản xuất và kinh doanh.

Hệ thống thoát nước nhìn chung có hạ tầng kỹ thuật thiếu, chưa đồng bộ nên chưa đáp ứng được yêu cầu. Tại các thị trấn, thị tứ, thoát nước tự chảy là chủ yếu hoặc dựa vào các trạm bơm thuỷ nông, chưa có hồ điều hoà. Tại thành phố Hải Dương có 50 hồ điều hoà và 20 trạm bơm thoát nước với tổng công suất khoảng 93.000m3/giờ nhưng khả năng tiêu thoát nước kém bởi diện tích hồ nhỏ, thiết bị các trạm bơm lạc hậu. Đối với các KCN, đã xây dựng và sử dụng hệ thống xử lý nước thải tập trung tại 04/10 KCN được phê duyệt quy hoạch.

Một số lĩnh vực kết cấu tầng khác

– Hạ tầng các khu, cụm công nghiệp đang dần hoàn thiện đồng bộ. Với 18 KCN có diện tích quy hoạch khoảng 4.000 ha được cấp có thẩm quyền cho phép thành lập đến năm 2015 và định hướng 2020, các KCN đều được quy hoạch ở vị trí thuận lợi cho phát triển lâu dài. Tính đến năm 2010, 10 KCN đã và đang xây dựng hạ tầng (trong đó 6 KCN đã cơ bản xây dựng xong hạ tầng). Ngoài ra, đã thực hiện quy hoạch 38 CCN nhưng nhìn chung hạ tầng còn yếu kém, chưa đồng bộ.

– Hệ thống thông tin viễn thông, dịch vụ ngân hàng, cảng nội địa (ICD – Inland Container Depot), hải quan khá đầy đủ, thuận tiện và tương đối hiện đại. Trong đó, kết cấu hạ tầng kỹ thuật của lĩnh vực thông tin viễn thông được đầu tư hiện đại hoá theo công nghệ ngang tầm với các nước trong khu vực, đáp ứng tốt nhu cầu trong hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh.

– Hệ thống cơ sở giáo dục, đào tạo được mở rộng và phát triển. Đến năm 2010, trên địa bàn tỉnh có 293 trường mầm non, 279 trường tiểu học (trong đó có 01 cơ sở giáo dục ngoài công lập), 272 trường THCS, 53 trường THPT, 13 trung tâm giáo dục thường xuyên, 8 trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, 265 trung tâm học tập cộng đồng, 4 trường trung cấp chuyên nghiệp, 8 trường cao đẳng và đại học. Về hệ thống dạy nghề, đã có 35 đơn vị, trong đó 20 đơn vị đang trực tiếp dạy nghề cho các cấp trình độ (sơ, trung cấp, cao đẳng nghề), trong đó có 4 trường cao đẳng nghề công lập, 4 trường trung cấp nghề (3 trường công, 1 trường tư), 21 trung tâm dạy nghề (7 trung tâm công lập cấp huyện), 8 trường đại học, cao đẳng, trung cấp có dạy nghề và 3 trung tâm giới thiệu việc làm có dạy nghề. Cùng với mở rộng quy mô, đang ngày càng nâng cao chất lượng, có khả năng cung cấp cho tỉnh nguồn nhân lực có chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu CNH và hội nhập kinh tế của tỉnh.

– Hệ thống cơ sở hạ tầng ngành y tế luôn được nâng cấp, cải tạo và xây dựng mới. Từ bệnh viện đa khoa tỉnh, bệnh viện đa khoa cấp huyện đến các cơ sở y tế khác đều được đầu tư xây dựng, các trang thiết bị được thay thế, nâng cấp theo hướng tiêu chuẩn, hiện đại góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đảm bảo sức khoẻ nhân dân.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phát triển là “lực hấp dẫn” quan trọng để thu hút đầu tư, nâng cao NLCT của tỉnh Hải Dương.

2.4. Thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp

Đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm (2006 – 2010) ước đạt 73.576 tỷ đồng, tăng bình quân 24,7%/năm, cao hơn thời kỳ 2001 – 2005 (đạt 23.375 tỷ đồng, tăng bình quân 14,5%). Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 46,9% năm 2005 lên 61,4% năm 2010, trong khi cả nước là 41% [4].

Cơ cấu nguồn vốn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, phản ánh khả năng đa dạng hoá các nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển. Tỷ trọng vốn nhà nước – ngoài nhà nước – vốn nước ngoài chuyển dịch từ 31,1% – 45,7% – 23,2% năm 2005 sang 21,6% – 57,2% – 21,2% năm 2010 [4].

* Tình hình thu hút dự án đầu tư

– Về thu hút dự án đầu tư trong nước: Tính đến hết năm 2010, tổng số các dự án đầu tư trong nước ngoài KCN trên địa bàn tỉnh còn hiệu lực là 771 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 27.100 tỷ đồng, số lao động dự kiến sử dụng khoảng 66.000 người, diện tích đất dự kiến sử dụng khoảng 2.280 ha. Trong đó năm 2010, UBND tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 119 dự án, với tổng số vốn đăng ký 4.526,6 tỷ đồng, số lao động dự kiến sử dụng khoảng 4.800 người, diện tích đất sử dụng khoảng 376,8 ha (Xem Phụ lục 11).

– Về thu hút dự án FDI: Đến 31/12/2010, trên địa bàn tỉnh Hải Dương có 204 dự án FDI đến từ 23 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký là 2.596,5 triệu USD, số vốn thực hiện ước đạt 1.631,8 triệu USD, bằng 62,8% vốn đăng ký (trung bình cả nước khoảng 40,1%). Đã có 150 dự án FDI đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thu hút 85.000 lao động trực tiếp tại các DN cùng hàng ngàn lao động gián tiếp khác. Lĩnh vực có nhiều dự án đầu tư như: sản xuất trang phục (40 dự án) và sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (34 dự án). Trong 23 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào tỉnh, Nhật Bản là nước có vốn đầu tư cao nhất, chiếm 27,7%, tiếp theo là Đài Loan 24,8%, Samoa 13,7%, Hàn Quốc 10,5%, Hoa Kỳ 6 %. Các dự án FDI chủ yếu thuộc lĩnh vực công nghiệp – xây dựng với 182 dự án (chiếm 89,2%), vốn đầu tư 2.371,5 triệu USD (chiếm 91,3 %); lĩnh vực nông nghiệp có 8 dự án (chiếm 3,9%), vốn đầu tư 17,8 triệu USD (chiếm 0,7 %); lĩnh vực dịch vụ có 14 dự án (chiếm 6,8%) với vốn đầu tư 207,8 triệu USD (chiếm 8%). Năm 2010, doanh thu từ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.764,5 triệu USD, tăng 18,7% so với năm 2009, trong đó doanh thu xuất khẩu đạt 1.096 triệu USD, đóng góp khoảng 90% kim ngạch xuất khẩu, 43% giá trị sản xuất công nghiệp và 42,4% tổng thu ngân sách nhà nước tại địa phương (Xem Phụ lục 11).

* Tình hình phát triển doanh nghiệp

Giai đoạn 2006 – 2010, trên địa bàn tỉnh có sự phát triển khá nhanh về số lượng DN nhưng quy mô nhìn chung còn nhỏ thể hiện ở quy mô lao động, vốn và tài sản cố định. Về lao động, có 97% số DN có dưới 300 lao động (cận trên của tiêu chí DNNVV), trong đó 84,3% DN dưới 50 lao động. Về vốn, 78,8% DN có số vốn dưới 10 tỷ đồng (thuộc nhóm DN nhỏ), trong đó 64,9% số DN có số vốn dưới 5 tỷ đồng. Tuy tốc độ tăng bình quân của lao động và vốn khá cao (lao động 21,3% và vốn 44,8%) song quy mô lao động còn nhỏ, số vốn tăng nhanh tập trung ở một số DN lớn của TW và một vài DN FDI, những DN này có quy mô sản xuất lớn (lao động trên 1.000 người, vốn trên 1.000 tỷ đồng) và có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, chi phối đến tốc độ phát triển chung của khối DN trên địa bàn tỉnh. Các DN còn lại (trên 90%) là các DNNVV. Đối với những DN này, trong quá trình sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, khả năng đầu tư thấp, NLCT hạn chế…[4]. Năm 2010, Hải Dương có tổng số khoảng 5.000 DN, đạt tỷ lệ bình quân khoảng 3 DN/1.000 dân, chỉ bằng một nửa mức bình quân chung cả nước (khoảng 6 DN/1.000 dân).

– Khu vực kinh tế tư nhân: Tính đến 31/12/2010, trên địa bàn tỉnh có trên 5.000 DN đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp với số vốn đăng ký khoảng 90.000 tỷ đồng, trong đó các DN thuộc thành phần KTTN là 4.797 DN, số vốn đăng ký là 31.158 tỷ đồng, chiếm 99% tổng số DN và 80% tổng số vốn đăng ký các DN hoạt động theo Luật Doanh nghiệp trên địa bàn. Ngoài ra, còn khoảng 80.000 hộ sản xuất kinh doanh cá thể.

– Khu vực kinh tế nhà nước: Tính đến 31/12/2009, trên địa bàn tỉnh có 33 DNNN, trong đó 19 DNNN TW và 14 DNNN địa phương. So với năm 2005 đã giảm 4 DN (trong đó giảm 07 DNNN địa phương do được đổi mới và sắp xếp lại, nhưng tăng 03 DNNN TW) [4]. Hầu hết các DN sau cổ phần hoá phát triển khá, hiệu quả kinh doanh và NLCT được nâng lên.

2.5. Các lĩnh vực khác

Lĩnh vực thương mại phát triển khá, đảm bảo lưu thông hàng hoá và vật tư cho sản xuất. Thị trường hàng hoá và dịch vụ đa dạng và ổn định. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ xã hội năm 2010 ước đạt 12.890 tỷ đồng, tăng 2,7 lần so với năm 2005. Tổng ngạch xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010 ước đạt 2.836 triệu USD gấp 7,14 lần giai đoạn 2001 – 2005. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực DN địa phương giảm mạnh từ 49% năm 2005 xuống còn 5% năm 2010, do khu vực FDI tăng mạnh, bình quân 73,5%/năm trong khi khu vực địa phương bình quân giảm 4,4%/năm trong giai đoạn 2006 – 2010 [4].

Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh tăng nhanh, từ 2.407 tỷ đồng năm 2005 lên 4.005 tỷ đồng năm 2010. Chi ngân sách cũng tăng lên, đạt 4.403 tỷ đồng năm 2010, trong đó chi đầu tư phát triển đạt khoảng 905 tỷ đồng chiếm khoảng 20,5% [4].

Hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng được mở rộng, đổi mới và cơ bản đáp ứng được nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Tổng nguồn vốn huy động giai đoạn 2006  –  2010  tăng  nhanh,  bình  quân  58,5%/năm,  tổng  dư  nợ  cho  vay  tăng 47,5%/năm trong đó, dư nợ trung và dài hạn tăng bình quân 43,8%/năm.

Bên cạnh đặc điểm kinh tế – xã hội trên, tỉnh Hải Dương là vùng đất văn hiến, có nhiều di tích lịch sử, danh thắng nổi tiếng như Côn Sơn, Kiếp Bạc, Yên Phụ, Kính Chủ và nhiều lễ hội truyền thống, tiêu biểu của văn hóa châu thổ sông Hồng tạo ra nét độc đáo trong phát triển du lịch.

Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội là những yếu tố truyền thống cơ bản, tạo cho Hải Dương một số lợi thế nhất định trong quan hệ hợp tác và thu hút đầu tư phát triển. Để nâng cao NLCT của tỉnh trong thời gian tới, những yếu tố nguồn lực mềm đảm nhận vai trò quyết định trên nền các yếu tố truyền thống mà tỉnh đang có.

Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội tỉnh Hải Dương

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?