Nguyên nhân những hạn chế trong quản lý nợ xấu

Quy trình phát triển dự án kinh doanh bất động sản Trên một khu đất, nhà đầu tư kinh doanh bất động sản đứng trước bài toán lựa chọn mô hình đầu tư tối ưu trong số các mô hình trên. Để thành công trong quyết định lựa chọn mô hình đầu tư kinh doanh bất động sản và quản lý khai thác hiệu quả, nhà đầu tư cần phải thực hiện phân tích lựa chọn theo quy trình sau: Các dạng rủi ro trong đầu tư kinh doanh bất động sản | đầu tư kinh doanh bất động sản Các dịch vụ và kinh doanh bất động sản Đặc điểm của đầu tư kinh doanh bất động sản Đặc trưng của chiến lược kinh doanh Bản chất của chiến lược kinh doanh Bước 1: Tìm kiếm đất và khẳng định đất phù hợp: Tìm kiếm khu đất để đầu tư là việc làm thường xuyên của nhà đầu tư BĐS. Khu đất kinh doanh BĐS có hai dạng: thứ nhất là đất thuê lại từ đối tác kinh doanh khác hoặc thuê đất thuộc quỹ quản lý của nhà nước; thứ hai là mua đất từ đối tác khác. Nhà đầu tư thường tính đến việc mua khu đất ở đâu, giá bao nhiêu, khi nào mua… dựa trên sự phù hợp của khu đất. Khu đất phụ hợp là khu đất tọa lạc tại những vị trí chiến lược có thể phát triển kinh doanh một hoặc nhiều hơn một loại hình dịch vụ nào đó (các loại hình dịch vụ như định nghĩa trên) và khả thi về mặt pháp lý. Một khu đất được xem là khả thi về mặt pháp lý nếu khu đất đó thuộc diện được phép đầu tư khai thác kinh doanh bởi chính quyền địa phương. Hơn nữa, bất kỳ một khu đất nào hiện nay trên Việt Nam đều thuộc diện khống chế quy hoạch để sử dụng vào mục đích nhất định nào đó (quy hoạch cho mục đích kinh doanh, hoăc quy hoạch cho mục đich công, hoặc các tiêu chuẩn kỹ thuật trong quy hoạch), vì thế đòi hỏi nhà đầu tư phải kiểm tra tính phù hợp của thông số quy hoạch với mục đích kinh doanh của họ (với những thông số quy hoạch đó có mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư hay không). Để biết được thông tin quy hoạch khu đất, nhà đầu tư có thể tìm đến cơ quan quản lý quy hoạch của tỉnh như sở quy hoạch xây dựng, sở tài nguyên & môi trường hoặc những chuyên viên phụ trách quy hoạch của UBND tỉnh nới quản lý khu đất. Trong trường hợp khu đất chưa có ý đồ quy hoạch từ UBND tỉnh thì nhà đầu tư phải gửi công văn đề nghị xin chủ trương quy hoạch theo ý đồ của họ. Kết quả của bước tìm kiếm và khẳng định sự phù hợp của khu đất là nhà đầu tư phải ký được hợp đồng thuê, mua đất từ đối tác kinh doanh khác và chấp thuận chủ trương quy hoạch của UBND tỉnh nơi quản lý hành chính của khu đất hoặc hợp đồng thuê đất với UBND tỉnh (nếu thuộc khu đất do nhà nước quản lý). Bước 2: Ý tưởng kinh doanh: Như trình bày ở bước 1, khu đất thông thường đều thuộc diện khống chế quy hoạch cho mục đích kinh tế hay mục địch xã hội. Nhà đầu tư chỉ quan tâm đến khu đất quy hoạch cho mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, câu hỏi cần trả lời ở đây là kinh doanh theo mô hình nào? Nhà đầu tư phải dựa vào kinh nghiệm và tầm nhìn của họ để đề xuất ý tưởng kinh doanh. Dù kinh nghiệm và tầm nhìn của những nhà đầu có sự khác nhau nhưng họ đều căn cứ trên một cơ sở chung là dựa vào thị trường. Khi đưa ra quyết định đầu tư trong điều kiện thiếu dữ liệu chắc chắn về thị trường đó ra quyết định trong môi trường có rủi ro. Nhà đầu tư thận trọng họ sẽ thực hiện nghiên cứu thị trường trước khi đưa ra quyết định. Bước 3: Nghiên cứu thị trường Việc nghiên cứu thị trường để kiểm định lại ý tưởng kinh doanh là việc chuyển từ quyết định trong môi trường có rủi ro sang ra quyết định trong môi trường chắn chắn. Các loại thị trường cần nghiên cứu bao gồm các thị trường cao ốc văn phòng, căn hộ cho thuê, nhà hàng, khách sạn, trung tâm thương mại, hạ tầng công nghiệp, dịch vụ nhà ở…. Nghiên cứu thị trường phải dự báo được triển vọng và dung lượng của từng loại thị trường dịch vụ. Nghiên cứu thị trường sẽ kiểm định tính khả thi của ý tưởng kinh doanh và khuyến nghị các hướng phát triển dự án. Bước 4: Thiết kế ý tưởng Thiết kế ý tưởng dự án được căn cứ trên các tiêu chí sau: + Xác lập mô hình kinh doanh có hiệu quả; + Thiết kế ý tưởng kiến trúc có phong cách đặc trưng, ấn tượng, có tính hiệu dụng cao, có cảnh quan đẹp. + Chứng minh được hiệu quả đầu tư; + Đảm bảo chất lượng, tiến độ và ngân sách của quá trình xây dựng; + Đảm bảo nguồn thu và lợi nhuận. Dựa trên những tiêu chí trên, ý tưởng dự án phải thể hiện đầy đủ nội dung sau: + Mô hình kinh doanh cung cấp dịch vụ gì, tính vượt trội của các dịch vụ do dự án cung cấp so với các dịch vụ hiện hữu trên thị trường hiện nay; + Ý tưởng kiến trúc như thế nào, sự độc đáo của kiến trúc; + Các đặc điểm kỹ thuật; + Thị trường mục tiêu; + Quản lý đầu tư và khác thác như thế nào? Bước 5: Phân tích tài chính Phân tích tài chính nhằm xác định khả năng sinh lời của dự án, bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau: + Ước tính toàn bộ chi phí dự án + Dự kiến phương án hợp tác kinh doanh; + Ước tính nguồn vốn vay; + Thiết lập mô hình phân tích dựa trên những giả định cơ bản về dự án; + Phân tích dòng tiền cho toàn bộ dòng đời của dự án bao gồm chi phí đầu tư, nguồn vốn đầu tư, doanh thu, chi phí hoạt động, vốn vay, lợi nhuận, các chỉ số tài chính như NPV, IRR, thời gian hoàn vốn… + Phân tích độ nhạy với các biến thiên về suất đầu tư và giá thuê dự kiến. Bước 6: Tìm nguồn tài chính tài trợ cho dự án và lập hồ sơ dự án, xin cấp phép, vay vốn và triển khai dự án. Theo thiết kế cơ cấu nguồn vốn dự án, chủ đầu tư cân đối nguồn vốn của mình và quyết định huy động vốn tài trợ cho dự án. Trên thị trường tài chính hiện nay đã mở ra nhiều cơ hội huy động vốn qua các kênh phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty hoặc vay. Tuy nhiên, với các kênh huy động đó chỉ khả thi khi dự án đã được cấp phép, phê duyệt hoặc đã chi tiết được các hạng mục đầu tư. Để đạt sự cấp phép chủ đầu tư phải chứng minh được năng lực tài chính nên dòi hỏi phải tiến hành huy động vốn trước. Việc huy động vốn trong giai đoạn này, chủ đầu tư tìm đối tác tham gia hợp tác đầu tư thông qua ký kết biên bản thỏa thuận (MOU) hợp tác đầu tư với các nội dung sau: + Thỏa thuận về chi phí; + Thỏa thuận về thời gian; + Thỏa thuận về nhân lực; + Thỏa thuận về cách làm; Sau khi các bên tham gia góp vốn ký kết văn bản hợp tác đầu tư (MOU), họ tiến hành lập hồ sơ dự án, bao gồm nội dung sau: + Các đánh giá rải rác; + Đánh giá tiền khả thi; + Các tài liệu, văn bản ghi nhận trao đổi nội bộ với đối tác; + Báo cáo khả thi xây dựng xác với dự án hoàn chỉnh. Nhà đầu sử dụng hồ sơ dự án để thực hiện các hoạt động xin phép đầu tư, thiết kế chi tiết, vay vốn để bắt đầu triển khai dự án. Bước 7: Triển khai dự án kinh doanh bất động sản Triển khai dự án gồm các công việc sau: + Thiết kế chi tiết; + Đấu thầu và chọn thầu xây dựng; + Vay vốn và giải ngân vốn chủ sở hữu; + Phương án tổ chức giám sát, quản lý; Phương án tổ chức giám sát, quản lý và khai thác dự án có thể do chủ đầu tư tự thực hiện. Nếu dự án có tính phức tạp cao trong khi nhân lực của doanh nghiệp hoặc chủ đầu tư không đủ khả năng quản lý thì sử dụng đến dịch vụ tư vấn thực hiện các công việc sau: + Đại diện khách hàng (Lập kế hoạch xây dựng và quản lý chất lượng); + Bán và tiếp thị; + Tư vấn và quản lý tài sản. Trên đây quy trình phát triển một dự án kinh doanh BĐS. Mỗi loại dự án đều có đặc thù riêng, không có gì áp dụng chung cho mọi trường hợp. Tất cả chỉ là phương pháp. Quy trình phát triển dự án kinh doanh bất động sản

Mục lục

Nguyên nhân những hạn chế trong quản lý nợ xấu

Có thể tổng kết lại nguyên nhân khiến cho hoạt động quản lý nợ xấu của các NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế là do:

  1. Các nguyên nhân ngoài ngân hàng trong quản lý nợ xấu

1.1. Môi trường pháp lý chưa thuận lợi

Bản thân môi trường pháp lý trong hoạt động kinh doanh của các NHTM vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ nên đã gây nhiều khó khăn trong hoạt động quản lý nợ xấu của các ngân hàng. Các văn bản quy định có sự phối hợp giữa các ban ngành trong việc xử lý nợ triển khai chậm. Việc xử lý TSĐB liên quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc. Ngoài ra, các văn bản pháp luật của Việt Nam cũng tồn tại
nhiều bất cập. Cụ thể như:

– Về các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của tổ chức, cá nhân và các doanh nghiệp: quy định về làm giấy chứng nhận quyền sử đụng đất và sở hữu nhà vẫn chưa ngã ngũ giữa giấy xanh, giấy đỏ… , các bất động sản là máy móc thiết bị… vẫn chưa có giấy chứng nhận sở hữu (do chưa có luật về sở hữu), luật về bản quyền, sở hữu trí tuệ chưa thực sự có hiệu lực… đã dẫn đến khó khăn cho ngân hàng trong việc nhận TSBĐ mặc dù điều kiện vay có đảm bảo bằng tài sản vẫn là biện pháp an toàn cho ngân hàng.

– Hệ thống chuẩn mực kế toán của Việt Nam còn nhiều điểm khác biệt so với chuẩn mực kế toán quốc tế. Hiện nay, đã có 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được Bộ tài chính ban hành. Các chuẩn mực này phần lớn là các chuẩn mực kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế, tuy nhiên lại chưa thực sự đầy đủ vì có những chuẩn mực kế toán quốc tế chưa phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.

– Quyết định 493 và Quyết định số 18 đã bộc lộ nhiều hạn chế cần phải sửa đổi. Có thể kể tới như:

+ Chưa phân loại nợ, trích lập dự phòng đầy đủ với các khoản mục Tài sản “Có” có phát sinh RRTD, cụ thể: Các loại tiền gửi tại các TCTD khác; Các chứng khoán nợ giữ đến ngày đáo hạn; Các loại công cụ chuyển nhượng…

+ Hầu hết các TCTD thực hiện phân loại nợ theo quy định tại Điều 6 Quyết định 493 đều có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%. Tuy nhiên, các TCTD chưa có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ việc phân loại nợ và quản lý chất lượng tín dụng. Điều này cho thấy kết quả phân loại nợ chưa phản ánh đúng chất lượng nợ của các TCTD.

+ Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ quy định tại QĐ 493 mới chung chung, không cụ thể, do đó các TCTD khi xây dựng gặp nhiều khó khăn; mức độ hoàn thành và chất lượng chưa tốt.

+ Đã có một số TCTD đã xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tương đối khoa học. Tuy nhiên, do không có quy định cụ thể đối với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, do đó các TCTD nói chung và một số TCTD đã xây dựng hệ thống này chưa đánh giá và khai thác hết vai trò, lợi ích của việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong việc quản lý chất lượng tín dụng, phân loại nợ, trích lập DPRR. Do các TCTD tự xây dựng theo một phương pháp riêng đã tạo ra sự không thống nhất giữa các TCTD trong việc quản lý chát lượng tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; đồng thời việc quản lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc các TCTD phân loại nợ theo Điều 7 Quyết định 493 gặp nhiều khó khăn, không thống nhất.

– Việt Nam vẫn còn thiếu hẳn một khung pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Hiện nay chúng ta chưa có văn bản pháp lý chính thức công nhận xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp là một dịch vụ tài chính cũng như các quy định pháp lý liên quan tới các tiêu chuẩn để thành lập một công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Mặt khác tại Việt Nam cũng thiếu hẳn những văn bản pháp lý quy định xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp là một công cụ pháp lý để quản lý thị trường tài chính và đưa ra các biện pháp pháp lý để kiểm tra, giám sát các báo cáo tài chính đã được kiểm toán của doanh nghiệp.

[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm : Hạn chế trong hoạt động quản lý nợ xấu[/message]

1.2. Hệ thống thông tin yếu kém và thiếu tính minh bạch

Để các NHTM Việt Nam có thể áp dụng theo các chuẩn mực của Basel II thì các thông tin trên thị trường chứng khoán và thị trường vốn là hết sức quan trọng.

Trong khi đó, thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời cho đến nay chỉ hơn 10 năm còn non trẻ và chưa thực sự trở thành môi trường cung cấp thông tin hoàn hảo cho các ngân hàng. Ngoài ra, các thông tin kinh tế vĩ mô và vi mô khác vẫn là một vấn đề rất khó thu thập đối với hệ thống NHTM Việt Nam. Mặc dù hiện nay, tại Việt Nam, vấn đề công bố thông tin đã được cải thiện hơn rất nhiều thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo, đài, internet, đặc biệt là trên một số website chính thức của các bộ ban ngành như Bộ tài chính, NHNN Việt Nam, các cổng giao dịch điện tử của chính phủ, chính quyền thành phố và các tỉnh. Tuy nhiên, thông thường những báo cáo này thường được lập dưới dạng báo cáo năm, lại có độ trễ tương đối lớn với thời gian xảy ra các sự kiện. Chính bởi vậy các thông tin này rất khó hỗ trợ cho các ngân hàng trong việc dự báo, đánh giá và phòng ngừa rủi ro. Còn lại, những thông tin thống kê chuyên biệt để tạo cơ sở dữ liệu cho các ngân hàng hiện nay l ạ i rất ít, ngoài trung tâm thông tin tín dụng của NHNN ra, hầu như tồn tại rất ít các tổ chức có khả năng đứng ra thu thập và cung cấp thông tin trên thị trường.

Cho đến nay, kênh cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng được đánh giá tốt nhất ở Việt Nam vẫn là CIC. CIC đã hoạt động được hơn một thập niên, cung cấp kịp thời về tình hình tín dụng nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và yếu kém. Thông tin còn thiếu tính cập nhật, được cung cấp đơn điệu, chưa đáng tin cậy tuyệt đối. Các hạn chế trong khâu thu thập, quản lý và cung cấp thông tin minh bạch trên thị trường sẽ là thách thức cho hệ thống NHTM Việt Nam trong việc mở rộng và kiểm soát hoạt động tín dụng. Nếu các ngân hàng cạnh tranh bằng cách chạy theo
thành tích, tăng trưởng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin bất cân xứng thì sẽ không tránh khỏi nguy cơ nợ xấu gia tăng.

Chinh những vấn đề trên đã dẫn tới thực trạng công bố thông tin tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam được thực hiện một cách khá ngẫu hứng và tuỳ tiện, các thông tin đưa ra chưa được kiểm chứng và có thể rất khác so với số liệu kiểm toán sau đó. Mặt khác, các thông tin đưa ra thường được chọn lọc theo hướng có lợi cho doanh nghiệp nên thường không đầy đủ và toàn diện

Như vậy, vấn đề thiếu thông tin cũng như không được hỗ trợ đầy đủ về mặt thông tin là một trong những khó khăn lớn nhất mà các NHTM Việt Nam gặp phải khi áp dụng theo những chuẩn mực mới của hiệp ước Basel. Điều này cũng được đa số các chuyên gia ngân hàng đồng tình. Trong những chuẩn mực do Basel đưa ra, gần 80% các chuyên gia ngân hàng đánh giá là sẽ rất khó thực hiện và cần nhiều thời gian chuẩn bị vì lý do chúng ta thiếu hệ thống thông tin hỗ trợ.

1.3. Thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp

Nếu như trên thế giới, các NHTM được hỗ trợ rất nhiều từ các tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp và có uy tín thì hệ thống NHTM Việt Nam lại thiếu hẳn yếu tố này.

Hiệp ước Basel II dựa vào rất nhiều yếu tố để có thể xác định được hệ số rủi ro cho từng khoản mục tài sản liên quan đến từng nhóm đối tượng khác nhau, mà một trong những yếu tố này chính là kết quả xếp hạng tín nhiệm đáng tin cậy của một tổ chức độc lập. Hầu hết các hệ số rủi ro của các nhóm tài sản từ tiền gửi cho đến các khoản đầu tư hay cho vay đều chịu ảnh hưởng của việc xếp hạng tín nhiệm, chẳng hạn như khoản phải đòi tại một NHTM được xếp loại AAA+ thì có hệ số rủi ro chỉ là 20% trong khi cũng là khoản phải đòi tại NHTM nhưng nếu ngân hàng đó bị xếp hạng là B- thì hệ số rủi ro có thể lên đến 100% hoặc 150%. Hoặc các khoản đầu tư vào trái phiếu của những quốc gia được xếp hạng cao hơn thì cũng sẽ có hệ số rủi ro thấp hơn so với khoản đầu tư vào trái phiếu của những quốc gia hạn xếp hạng trung bình hoặc kém.

Hiện nay thực tế mỗi NH TM Việt Nam đều đang từng bước xây dựng một hệ thống xếp hạng tín nhiệm cho từng nhóm đối tượng khách hàng. Tuy nhiên việc xếp hạng này chủ yếu nhằm phục vụ quá trình thẩm định, ra quyết định cho vay của chính ngân hàng, rất ít được chia sẻ thông tin hay phổ biến rộng rãi bên ngoài, từ đó dẫn đến việc ngân hàng nào thì ngân hàng đó tự lo, dẫn tới kết quả là đôi khi sự đánh giá còn mang nặng về yếu tố cảm giác chủ quan hơn là khách quan. Ngoài ra, nó còn dẫn đến những kết luận thiếu chính xác chỉ vì lý do là thông tin không đầy đủ.

Ở Việt Nam hiện nay, các tổ chức có thể gọi là xếp hạng tín nhiệm độc lập gồm có:

– Công ty thông tin và xếp hạng doanh nghiệp (C & R) – thành lập năm 2004, được tách ra từ công ty giải pháp Việt Nam, là doanh nghiệp tư nhân đầu tiên tại Việt Nam cung cấp các loại báo cáo tín nhiệm dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá của các tổ chức lớn trên thế giới như Standard & Poor’s, Moody’s, Fitch Rating…

– Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (CRVC) thuộc công ty phần mềm và truyền thông VASC, được ra đời vào ngày 4/6/2005.

– Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) vừa có chức năng thu thập và cung cấp thông tin tín dụng cho NHNN, các TCTD – đặc biệt là các NHTM và tổ chức cá nhân khác, lại vừa thực hiện việc xếp loại tín dụng doanh nghiệp (theo Quyết định số 473/QĐ – NHNN ngày 28/4/2004)

Có thể nhận thấy, so với thế giới, những tổ chức xếp hạng tín nhiệm này đều còn rất non trẻ, như vậy để xây dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu thật sự đủ lớn, đa dạng, có chất lượng và được chấp nhận rộng rãi thì sẽ phải mất một khoảng thời gian đáng kể. Đó là chưa nói đến những tiêu chuẩn và hệ thống xếp loại của các tổ chức này đều đang tạm thời sử dụng từ các tổ chức khác nhau trên thế giới chứ chưa thể xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu thống nhất cho Việt Nam. Trong khi, phương pháp chuẩn hóa được đưa ra trong Hiệp ước lại nhấn mạnh vai trò của cơ quan xếp hạng trong việc phân loại rủi ro tài sản.

Hoạt động xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp đòi hỏi những chuyên gia phân tích có tầm nhìn sâu về tài chính. Đây là đòi hỏi quá lớn đối với nhân lực trong ngành tài chính vốn còn non trẻ và không có nhiều kinh nghiệm hiện nay ở nước ta. Do các sản phẩm của xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp cũng còn khá mới mẻ với thị trường tài chính Việt Nam, nên khó có cơ sở để đào tạo được một nguồn nhân lực đủ trình độ về tài chính nói chung và về TTCK nói riêng hội đủ các kiến thức tổng hợp về nhiều ngành.

Ngoài ra, ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, hầu hết các doanh nghiệp không được xếp hạng. Điều này dẫn tới bất lợi cho các NHTM Việt Nam vì tất cả các khoản vay khách hàng không được xếp hạng sẽ bị áp dụng mức độ rủi ro là 100%. Hơn nữa, việc các doanh nghiệp chưa được xếp hạng có thể dẫn tới tình trạng các công ty xếp hạng sẽ tiến hành chấm điểm xếp hạng doanh nghiệp mà không xuất phát từ yêu cầu của doanh nghiệp. Khi đó, điểm xếp hạng do những công ty này cung cấp sẽ không chính xác do thông tin về doanh nghiệp chưa đầy đủ và như vậy sẽ bất lợi cho doanh nghiệp.

1.4. Vẫn tồn tại sự can thiệp của chính phủ, cơ quan nhà nước tới hoạt động cho vay của các NHTM

Trong những năm trước đây,việc tồn tại các hoạt động cho vay theo chỉ định của chính phủ, hoặc theo kế hoạch của nhà nước đã gây rủi ro lớn cho các NHTM Việt Nam (VD: cho vay mua nông sản để bình ổn giá, cho vay đánh bắt cá xa bờ, cho vay khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh…). Thực tế cho thấy nhiều khoản cho vay theo chỉ định không chỉ mang nặng các yếu tố như: chính sách, ưu đãi, chính trị, mà bao gồm cả những lý do chủ quan duy ý chí nên đã gây ra mất mát lớn về tài sản tiền bạc cho các NHTM. Như đã phân tích ở đầu chương 3, tỷ lệ cho vay có chỉ định mặc dù đã
có xu hướng giảm qua các năm nhưng vẫn chưa thực sự tách bạch giữa tín dụng ưu đãi với tín dụng thương mại hoàn toàn theo cơ chế thị trường, dẫn đến trong quản lý, hạch toán và phân định trách nhiệm không minh bạch.

1.5. Thiếu sự giám sát chặt chẽ từ phía Ngân hàng nhà nước

Thực trạng cho thấy hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc theo dõi thông tin từ các báo cáo định kỳ của NHTM, việc xử lý và phân tích thông tin vẫn chỉ mang tính đơn giản, chưa thực sự đảm bảo theo đúng ý nghĩa của việc giám sát các NHTM một cách thường xuyên liên tục.

Có thể thấy, nội dung giám sát của NHNN Việt Nam thông qua các quyết định được ban hành nhằm thanh tra giám sát hoạt động ngân hàng vẫn chưa đầy đủ. Theo quyết định 457 về hoạt động giám sát từ xa của NHNN thì các nội dung mới chỉ giám sát mang tính định lượng mà chưa có những nhận định mang tính định tính về mức độ rủi ro và khả năng quản trị rủi ro của NHTM. Ví dụ như các tiêu chí để đánh giá RRTD của NHTM mới chỉ được thể hiện trong trong nội dung giám sát chất lượng tài sản bằng việc thống kê các khoản nợ quá hạn, hoặc trong việc giám sát giới hạn tín dụng
của NHTM. Tuy nhiên, điều này là chưa đủ để đánh giá mức độ rủi ro vì cần phải có thêm những đánh giá định tính khác như đánh giá các tiêu chuẩn cấp tín dụng và đánh giá quy trình xem xét cấp tín dụng của ngân hàng, đánh giá mức độ công bằng trong cấp tín dụng…

Ngoài ra, hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam chưa chú trọng vào hoạt động cảnh báo sớm cho các NHTM. Cảnh báo sớm rủi ro là hoạt động đòi hỏi NHNN Việt Nam đưa ra được danh sách và số lượng các NHTM được cảnh báo là nằm ngoài xu hướng biến động chung của hệ thống hoặc có những biểu hiện bất thường cần được điều tra, xem xét và làm rõ. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam đối với NHTM vẫn chỉ mang tính theo dõi, giám sát một cách riêng lẻ đối với từng NHTM. Việc tổng hợp để thấy được các xu hướng chung của cả hệ thống ngân
hàng trong từng lĩnh vực hoạt động ngân hàng vẫn còn là hạn chế của hoạt động giám sát.

2. Các nguyên nhân bên trong ngân hàng trong quản lý nợ xấu

2.1.Năng lực tài chính yếu

Một trong những khó khăn ảnh hưởng đến việc quyết định áp dụng Basel II vào hệ thống giám sát và quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam đó chính là chi phí vận hành theo toàn bộ chuẩn mực của Basel II quá lớn. Theo ước tính, các NHTM cỡ nhỏ phải tốn xấp xỉ 10 triệu USD, chiếm khoảng 15% vốn điều lệ của các NHTM CP.

Trong khi đó, nếu là ngân hàng cỡ lớn thì chi phí vận hành hệ thống Basel này có thể lên đến 200 triệu USD, cao hơn cả mức vốn pháp định của các NHTM NN theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP của chính phủ. Đây là lý do mà có rất ít các NHTM Việt Nam vận dụng được một cách đầy đủ các tiêu chuẩn và quy định mà hiệp ước đã đề ra.

Ngoài ra năng lực tài chính yếu cũng cản trở các NHTM Việt Nam trong khả năng cạnh tranh trên thị trường cũng như khả năng đối phó với các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại.

2.2. Công nghệ ngân hàng

Thực tế cho thấy, công nghệ hiện đại tại các ngân hàng Việt Nam mặc dù đã được chú trọng và xây dựng phù hợp với việc ứng dụng công nghệ mới theo chuẩn quốc tế nhưng vẫn chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ.

Hoạt động tín dụng hay hoạt động giám sát tài chính của ngân hàng rất cần có công nghệ hiện đại, ít nhất là phải có hệ thống thông tin quản lý (MIS) để có thể cập nhật thông tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát nhanh chóng và nhạy bén. Điều đó ở Việt Nam chưa làm được. NHNN đang xây dựng hệ thống MIS hiện đại có tổng trị giá 70 triệu USD nhưng phải đến năm 2012 trở đi thì mới có thể ứng dụng được.

Điều đó có nghĩa là các NHTM Việt Nam phải chờ đến thời điểm đó mới có hệ thống phần cứng, hệ thống dữ liệu cơ sở để tiến hành được các phân tích tài chính vĩ mô, cũng như cập nhật thông tin để phân tích, xác định rủi ro và đưa ra những cảnh báo cho khu vực tài chính một cách nhanh chóng và chính xác.

2.3. Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế

Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tín dụng chưa đồng đều, còn hạn chế về khả năng thu thập và phân tích thông tin trong thẩm định và xử lý tín dụng. Một số cán bộ tín dụng đạo đức nghề nghiệp, tính tự giác, tinh thần trách nhiệm trong công việc còn chưa cao, vi phạm quy trình tín dụng, buông lỏng quản lý dẫn đến phát sinh RRTD. Một bộ phận cán bộ của hệ thống ngân hàng bị đồng tiền và cơ chế thị trường cám dỗ, đã đặt lợi ích cá nhân lên trên, lợi dụng công việc được giao để móc ngoặc với con nợ, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để làm giàu bất hợp pháp, gây thiệt hại nhiều về tài sản tiền vốn cho ngân hàng.

Ngoài ra, hiện nay nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và khả năng ngoại ngữ để tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế là rất hạn chế. Khảo sát của tác giả về việc am hiểu hiệp ước Basel tại các NHTM Việt Nam năm 2011 cho thấy với hiệp ước Basel nói chung, có 16.67% số người được hỏi cho biết là chưa bao giờ nghe nói đến hiệp ước Basel, kể cả Basel I và II, và thực tế thì phần lớn trường hợp này là những nhân viên mới tham gia trong bộ phận kiểm soát tài chính hoặc kiểm soát nội bộ. Gần 80% số người được hỏi cho biết có nghe nói đến hiệp ước Basel nhưng hiểu rõ hiệp ước này thì chỉ có 6.86%. Hơn 70% còn lại thực sự đã từng nghe nói đến Basel nhưng không biết nhiều, thông thường chỉ nắm một vài chuẩn mực đơn giản như yêu cầu vốn tối thiểu, hệ số CAR và hệ số rủi ro trong đánh giá RRTD theo hiệp ước Basel I, những trụ cột cơ bản và nội dung mới bổ sung trong Basel II có rất ít người biết đến.

Xem xét về mối quan hệ giữa thâm niên quản lý của người được hỏi với mức độ hiểu biết về Basel thì trong số 6.86% hiểu rõ về Basel, có 14.3% thâm niên trên 10 năm, 43% thâm niên quản lý từ 5 đến 10 năm và 43% là từ 3 đến 5 năm. Còn lại, đa số những người được phỏng vấn chỉ nắm một vài chuẩn mực cơ bản và phổ biến trong Basel. Đối với Basel I, có 40.2% tự tin nắm vững các chuẩn mực ở mức độ trung bình trở lên, trong khi tỷ lệ này đối với Basel II chỉ là 30%. Có 19.6% số người được phỏng vấn không biết đến Basel II (Basel I là 7.8%). Trong nhóm các quy tắc của Basel II, 39.3% có biết đến quy tắc 1 ở mức độ trung bình trở lên về yêu cầu vốn tối thiểu, 60.7% hoàn toàn không biết hoặc biết rất ít, chỉ có 13-19% biết tương đối về quy tắc 2 và quy tắc 3 trong Basel II.

Nguyên nhân những hạn chế trong quản lý nợ xấu

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

1 thoughts on “Nguyên nhân những hạn chế trong quản lý nợ xấu

  1. Pingback: Hoàn thiện hệ thống pháp luật để quản lý các khoản nợ xấu ngân hàng | luanantiensiaz

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?