Mục lục
Đánh giá chung về cấu trúc tài chính của doanh nghiệp xi măng niêm yết tại Việt Nam
1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, quy mô và tỷ trọng tài sản dài hạn được giữ ổn định
Hệ số phản ánh cấu trúc tài sản phản ánh mức độ đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2009 – 2015, tỷ suất đầu tư TSDH, tỷ suất đầu tư TSNH không có nhiều sự biến động, xoay quanh cấu trúc 60% tài sản DH và 40% tài sản NH. Quy mô tài sản dài hạn của ngành không có nhiều sự thay đổi. Tỷ trọng tài sản cố định có tăng lên, tỷ trọng khoản chi phí xây dựng cơ bản dở dang giảm xuống. Điều này phản ánh hoạt động đầu tư tài sản dài hạn thấp, chủ yếu dành nguồn lực thực hiện các dự án còn dang dở. Cấu trúc tài sản cố định hữu hình chủ yếu tồn tại dưới hình thức máy móc thiết bị, và nhà cửa, vật kiến trúc, phù hợp với đặc điểm của ngành sản xuất xi măng.
Nếu căn cứ theo tính chất tài sản, cấu trúc tài sản của DNXMNY đang có sự thay đổi theo hướng giảm dần đầu tư vào tài sản lưu động và tăng dần mức đầu tư vào tài sản cố định. Trong giai đoạn 2012 – 2015, cấu trúc tài sản ổn định và xoay quanh cấu trúc 57% tài sản cố định và 43% tài sản lưu động. Cấu trúc này đang có xu hướng giảm dần đầu tư vào tài sản lưu động và tăng dần mức đầu tư vào tài sản cố định. Điều này phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngành công nghiệp xi măng.
Thứ hai, cấu trúc tài chính theo quan hệ sở hữu ổn định trong giai đoạn 2013 – 2015.
Trong giai đoạn 2013 – 2015, cấu trúc tài chính theo quan hệ sở hữu ổn định quanh mức 73% nợ phải trả và 27% vốn chủ sở hữu. Trong đó, các khoản nợ phải trả có chi phí chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn, bình quân là 45%, có xu hướng tăng nhẹ và ổn định trong giai đoạn 2009 – 2015. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý tài chính, đảm bảo chủ động nguồn lực tài chính cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ ba, quy mô và tỷ trọng vốn đầu tư của chủ sở hữu tăng lên
Quy mô vốn đầu tư của chủ sở hữu tăng lên và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô lớn, doanh nghiệp có tỷ lệ SHNN trên 50%, và doanh nghiệp được niêm yết trên HOSE. Điều này cho thấy, loại hình doanh nghiệp này đã tận dụng lợi thế hoạt động và quy mô để tận dụng cơ hội thực hiện huy động vốn chủ sở hữu từ bên ngoài. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư của chủ sở hữu của DNXM bình quân đạt 8,43% trong giai đoạn 2009 – 2015. Riêng các doanh nghiệp có quy mô lớn, tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư của chủ sở hữu tăng 9,09% trong giai đoạn 2009 – 2015. Qua đó góp phần nâng cao khả năng tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
Thứ tư, quy mô và tỷ trọng nguồn vốn thường xuyên vẫn chiếm chủ yếu
Căn cứ theo thời gian huy động và sử dụng vốn, các DNXM đã thực hiện chiến lược tài trợ theo hướng giảm dần nguồn vốn thường xuyên, tăng dần nguồn vốn tạm thời để tài trợ cho tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy mô và tỷ trọng nguồn vốn thường xuyên vẫn chiếm chủ yếu. Trong giai đoạn 2009 – 2015, quy mô NVTX đạt 1.235.669 triệu đồng, tỷ trọng NVTX trên tổng tài sản là 59,27%. Tức là, doanh nghiệp vẫn sử dụng nguồn vốn dài hạn, ổn định, thường xuyên tài trợ cho hoạt động kinh doanh. Điều này giúp cho doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong thanh toán, mức độ an toàn cao hơn, đồng thời giảm bớt chi phí sử dụng vốn.
Thứ năm, chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) giảm xuống
Trong giai đoạn 2009 – 2015, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp ngành xi măng niêm yết đang có sự thay đổi theo hướng tăng dần hệ số vay nợ, giảm dần hệ số vốn chủ sở hữu. Với cấu trúc tài chính này, cùng với kết quả kinh doanh và điều kiện môi trường kinh doanh trong giai đoạn 2009 – 2015, chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) đang có xu hướng giảm dần, từ mức bình quân 17,75% năm 2009 xuống 12,65% năm 2014 và tăng nhẹ trở lại mức 12,89% năm 2015. Chi phí sử dụng vốn bình quân trong giai đoạn 2009 – 2015 đạt 16%. Đây là biểu hiện tích cực, giúp cho doanh nghiệp tiếp kiệm được chi phí, nâng cao hiệu quả thực hiện dự án đầu tư.
Thứ sáu, quy mô kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xi măng tăng lên.
Quy mô kinh doanh của doanh nghiệp xi măng niêm yết tại Việt Nam thời gian qua được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như doanh thu thuần, tài sản bình quân và nguồn vốn chủ sở hữu bình quân. Quy mô tài sản, quy mô nguồn vốn (bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay) đều tăng lên trong giai đoạn 2009 – 2015, cho thấy các doanh nghiệp ngành xi măng không ngừng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng được mở rộng, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn.
Thứ bẩy, phương thức huy động vốn được đa dạng hóa.
Trong giai đoạn 2009 – 2015, các DNXM đã đa dạng hóa nguồn vốn huy động, nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Theo quan hệ sở hữu, nguồn vốn chủ yếu vẫn từ vay nợ từ bên ngoài (vay ngắn hạn, vay dài hạn ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng) và phần vốn chiếm dụng. Nguồn vốn chủ sở hữu chủ yếu vốn đầu tư của chủ sở hữu.
Trong bối cảnh kinh tế gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế thấp, thị trường bất động sản suy thoái, đầu tư công suy giảm, cùng với hoạt động đầu tư dàn trải, phá vỡ quy hoạch dẫn đến tình trạng cung vượt cầu, cùng với những nguyên nhân nội tại, nhiều doanh nghiệp xi măng Việt Nam đã kinh doanh thua lỗ, nợ nần và có dấu hiệu rõ ràng của tình trạng mất khả năng thanh toán. Trước những thách thức này, một số DNXM đã thực hiện đa dạng hóa phương thức huy động vốn, tình cách gia tăng quy mô tài sản và vốn chủ sở hữu nhằm cải thiện thực trạng tài chính của doanh nghiệp, tránh tình trạng mất khả năng thanh toán. Các phương thức doanh nghiệp thực hiện như:
* Chuyển nợ thành vốn chủ sở hữu: Phương thức này đã được công ty cổ phần xi măng Hà Tiên vận dụng năm 2013 bằng cách phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ công ty theo phương thức phát hành riêng lẻ 120 triệu cổ phần cho Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam (VICEM) với mục đích cấn trừ công nợ giữa HT1 và công ty mẹ VICEM mà không thu tiền trực tiếp. Phương thức chuyển nợ thành vốn chủ sở hữu, trước mắt đã giúp cho HT1 cắt giảm được khoản nợ dài hạn lớn, qua đó làm cho chi phí lãi vay phải trả giảm đi đáng kể. Hệ số nợ phải trả giảm xuống từ 85,84 năm 2012 xuống còn 75,63 năm Bảng cân đối kế toán với các chỉ số tài chính cải thiện hơn sẽ giúp công ty dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn tài trợ khác để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
* Sáp nhập công ty: Phương thức này đã được công ty cổ phần xi măng Hà Tiên vận dụng năm 2009, bằng cách sáp nhập Công ty cổ phần xi măng Hà Tiên 2 vào Công ty cổ phần xi măng Hà Tiên 1. Bên cạnh phương thức sáp nhập, nhằm tái cấu trúc một số doanh nghiệp xi măng như HVX còn thực hiện mua lại tài sản, nhà máy. Năm 2013, HVX đã thực hiện phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ công ty, số tiền thu được sẽ tài trợ cho việc mua lại nhà máy xi măng Ánh Sơn 2. Số cổ phần mới phát hành có thể được sử dụng để tất toán, cấn trừ công nợ phát sinh từ việc mua lại Nhà máy xi măng Ánh Sơn 2. Do đó, giá trị tài sản cố định của HVX năm 2013 đã tăng từ 79.622 triệu đồng lên đến 877.508 triệu đồng.
* Phát hành thêm cổ phiếu thường mới: Phát hành chứng khoán mới được thực hiện dưới hình thức phát hành thêm cổ phiếu mới, chia cổ tức bằng cổ phiếu, chuyển đổi khoản vay thành vốn góp. Qua đó, gia tăng độ vững mạnh tài chính cho doanh nghiệp. Khai thác tối đa lợi thế của hình thức công ty cổ phần đã giúp cho doanh nghiệp xi măng huy động kịp thời vốn, tái cơ cấu nguồn vốn theo hướng hợp lý, hiệu quả, thúc đẩy quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, vượt qua khủng hoảng thừa.
* Huy động vốn bằng nguồn tài trợ nợ vay.
Nguồn tài trợ từ nợ vay chiếm vị trí chủ đạo trong tổng nguồn vốn, là nguồn vốn cơ bản cho hoạt động kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp xi măng. Nợ phải trả (bao gồm các khoản chiếm dụng vốn, vay nợ ngắn hạn và vay nợ dài hạn) chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nguồn vốn và có xu hướng tăng lên liên tục trong giai đoạn 2009 – 2015. Doanh nghiệp ngành xi măng rất ít thực hiện huy động nợ vay dưới hình thức phát hành trái phiếu, hoặc thuê tài chính. Việc thực hiện huy động vốn vay nợ ngắn hạn và dài hạn được thực hiện dưới hình thức vay nợ của các tổ chức tín dụng, cá nhân thông qua cầm cố, thế chấp đảm bảo bằng tài sản.
2. Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những thành công, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp xi măng còn bất hợp lý và tác động tiêu cực đến sự cân bằng tài chính, sự độc lập về mặt tài chính, khả năng thanh toán, hiệu quả kinh doanh và giá trị doanh nghiệp.
Thứ nhất, cấu trúc tài chính tác động làm giảm sự cân bằng tài chính của các doanh nghiệp xi măng.
Căn cứ theo quan hệ sở hữu, cấu trúc tài chính doanh nghiệp xi măng niêm yết trong giai đoạn 2009 – 2015 duy hệ số nợ cao (68%). Trong nợ phải trả, chủ yếu là khoản nợ ngắn hạn (40%) và là các khoản nợ có phí (45,34%) và đếu trong xu hướng tăng lên. Căn cứ theo thời gian huy động và sử dụng vốn, cấu trúc tài chính duy trì 60% nguồn vốn thường xuyên, 40% nguồn vốn tạm thời. Trong nguồn vốn thường xuyên, quy mô và tỷ trọng của nợ dài hạn, nguồn vốn chủ sở hữu có xu hướng giảm xuống trong giai đoạn 2009 – 2015. Trong khi đó, quy mô và tỷ trọng tài sản dài hạn, tài sản ngắn hạn của DNXM ổn định. Quá trình điều chỉnh cấu trúc tài chính của DNXM trong thời gian qua theo hướng gia tăng nợ ngắn hạn, giảm nguồn vốn thường xuyên đã làm sự cân bằng tài chính của DNXM giảm xuống, và mất cân bằng, gia tăng rủi ro tài chính đối với doanh nghiệp. Đặc biệt, trong giai đoạn 2011 – 2015, chỉ tiêu nguồn vốn lưu động thường xuyên đều âm, cho thấy các doanh nghiệp ngành xi măng đã dùng nguồn vốn tạm thời để tài trợ cho tài sản dài hạn. Cách thức tài trợ này ẩn chứa rủi ro tài chính, phản ánh phương thức tài trợ chưa hợp lý, cán cân thanh toán mất thăng bằng. Phản ánh chính sách tài trợ bị động, thiếu tính ổn định trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thiếu chiến lược lâu dài trong hoạch định cấu trúc tài chính. Điều này càng đáng lo ngại hơn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng như ngành xi măng.
Thứ hai, cấu trúc tài chính tác động làm giảm mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp xi măng
Sự độc lập về mặt tài chính phản ánh khả năng tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2009 – 2015, nguồn vốn của DNXM chủ yếu được tài trợ từ nguồn vốn vay, phần lớn do nguồn nợ có phải trả chi phí và thời hạn của các khoản nợ là ngắn hạn. Các khoản nợ chiếm dụng chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn (23%). Quy mô và hệ số nguồn vốn bên ngoài duy trì ở mức cao và có xu hướng tăng lên, bình quân đạt 96,62% trong giai đoạn 2009 – 2015. Đặc biệt trong năm 2014 – 2015, hệ số này cao hơn 100%, cho thấy nguồn vốn tài trợ từ bên trong là không có. Nguồn vốn của DNXM do chủ thể bên ngoài tài trợ, phần nội lực thuộc về doanh nghiệp là rất thấp. Điều này cho thấy mức độ độc lập về mặt tài chính của DNXM là thấp và đang có xu hướng giảm xuống. Nguồn vốn kinh doanh phần lớn phụ thuộc bên ngoài, mang tính chất ngắn hạn.
Thứ ba, cấu trúc tài chính có tác động làm khả năng thanh toán suy giảm
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh năng lực về tài chính và mức độ rủi ro tài chính mà doanh nghiệp đối mặt. Trong giai đoạn 2009 – 2015, hệ số phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp ngành xi măng đều có xu hướng giảm xuống và ở mức thấp. Kết quả phân tích và bằng chứng thực nghiệm đối với DNXM cho thấy hệ số khả năng thanh toán hiện thời có mối quan hệ cùng chiều với hệ số NVTX, ngược chiều với hệ số nợ và hệ số NV bên ngoài. Trong giai đoạn 2009 – 2015, khi cấu trúc tài chính được điều chỉnh theo hướng giảm hệ số NVTX, hệ số nợ và hệ số NV bên ngoài tăng thì khả năng thanh toán được điều chỉnh theo xu hướng giảm xuống. Đặt doanh nghiệp vào trạng thái căng thẳng về mặt tài chính nhằm đáp ứng cho nhu cầu trả nợ trong ngắn hạn. Sự cân bằng tài chính suy giảm và rủi ro tài chính tăng lên.
Thứ tư, cấu trúc tài chính tác động làm giảm hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh được phản ánh thông qua chỉ tiêu ROE, ROA. Đây cũng là các chỉ tiêu có thể sử dụng để đo lường giá trị doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2009 – 2015, ROE và ROA của DNXM đều biến động theo xu hướng giảm xuống, bình quân trong giai đoạn này giảm lần lượt là 4,9% và 0,44%. Việc duy trì cấu trúc tài chính với hệ số nợ cao, đặc biệt là các khoản nợ ngắn hạn, có xu hướng tăng lên, hệ số nguồn vốn thường xuyên giảm dần, hệ số nguồn vốn bên ngoài tăng lên đã tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của DNXM. Hiệu quả kinh doanh suy giảm và đạt mức rất thấp, với kết quả âm trong giai đoạn 2011 – 2015. Điều này làm cho giá trị cổ phiếu, giá trị doanh nghiệp của DNXM giảm đi trong giai đoạn này. Kết quả phân tích và bằng chứng thực nghiệm trong mục 3.3.4 đối với DNXM trong giai đoạn 2009 – 2015 đã chứng minh nhận định trên.
Thứ năm, hệ số nợ ngắn hạn có xu hướng tăng và duy trì ở mức cao tác động làm gia tăng rủi ro tài chính, suy giảm giá trị doanh nghiệp.
Trong giai đoạn 2009 – 2015, quy mô và hệ số nợ ngắn hạn của DNXM có xu hướng biến động tăng liên tục và ở mức cao, bình quân đạt 40,73%. Năm 2015, hệ số nợ ngắn hạn của DNXM đạt mức cao nhất là 48,04%. Việc sử dụng nhiều nợ ngắn hạn với quy mô và tỷ trọng lớn phản ánh: (1) Gây áp lực lên khả năng thanh toán của doanh nghiệp, gia tăng rủi ro cho các doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho tài sản dài hạn. (2) Huy động nợ vay cao để tài trợ cho nhu cầu vốn phản ánh DNXM phụ thuộc rất nhiều vào động thái của chính sách tín dụng. (3) Chi phí sử dụng vốn tăng cao, do nguồn vốn ngắn hạn có chi phí huy động cao, sự thay đổi lãi suất sẽ ảnh hưởng trực tiếp, tức thời đến kết quả kinh doanh. (4) Nó phản ánh năng lực tài chính còn nhiều yếu kém, DNXM chưa thực sự quan tâm đến chính sách tài trợ, đặc biệt là những nguồn vốn có tính chất dài hạn, ổn định phục vụ cho hoạt động kinh doanh bền vững. Cuối cùng, tính tự chủ, độc lập về mặt tài chính của DNXM trong hoạt động kinh doanh giảm sút nghiêm trọng và mức rất thấp.
Thứ sáu, các phương thức tài trợ nợ vay chưa đa dạng
Nguồn tài trợ từ vay nợ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của DNXM. Tuy nhiên, phương thức tài trợ từ nợ vay của DNXM vẫn chưa thực sự đa dạng. Các DNXM vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn vay ngắn hạn, vay dài hạn từ các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng với tỷ trọng vay ngắn hạn và vay dài hạn trong tổng nguồn vốn ở mức cao, lần lượt là 19,75% và 25,6%. Chiếm dụng vốn chiếm tỷ trọng 20,98% trong giai đoạn 2009 – 2015. Các phương thức huy động vốn khác như phát hành trái phiếu và cho thuê tài chính còn hạn chế, chưa được phổ biến. Việc phụ thuộc vào nguồn tài trợ vay nợ từ tổ chức tín dụng khiến cho hoạt động kinh doanh của DNXM thiếu tính chủ động, chịu tác động bất lợi lớn vào các yếu tố bên ngoài như lạm phát, lãi suất, hiện trạng nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2009 – 2015, doanh nghiệp ngành xi măng chưa sử dụng phương thức phát hành trái phiếu để huy động vốn. Duy nhất có Công ty cổ phần xi măng Thái Bình (TBX) thực hiện phát hành trái phiếu nội bộ trong giai đoạn 2008 – 2010 để huy động vốn. Phần vốn vay còn lại được tài trợ chủ yếu từ ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, vay của các cá nhân. Do đó, doanh nghiệp xi măng không tận dụng được lợi thế của công cụ này để chủ động điều chỉnh cấu trúc vốn một cách linh hoạt, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
3. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế
3.1. Nguyên nhân chủ quan
Một là, các doanh nghiệp xi măng chưa thực sự hiểu rõ cơ chế tác động của đòn bẩy tài chính.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp sử dụng vốn vay, một mặt nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn còn thiếu hụt, mặt khác nhằm kỳ vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu hoặc thu nhập trên cổ phần. Đồng thời, việc sử dụng vốn vay cũng làm tăng thêm rủi ro tài chính cho doanh nghiệp. Do đó, khi sử dụng vốn vay tài trợ cho nhu cầu vốn kinh doanh, doanh nghiệp cần hiểu rõ cơ chế tác động của đòn bẩy tài chính. Khi doanh nghiệp sử dụng vốn và tài sản có hiệu quả, tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (BEP) của doanh nghiệp lớn hơn chi phí sử dụng vốn vay sẽ làm gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE). Tuy nhiên, việc sử dụng đòn bẩy tài chính không phải lúc nào cũng đem lại kết quả tích cực cho chủ sở hữu, khi doanh nghiệp sử dụng vốn và tài sản không hiệu quả, tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (BEP) doanh nghiệp nhỏ hơn chi phí sử dụng vốn vay thì sẽ làm giảm sút nhanh hơn tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu, tức là nếu doanh nghiệp bị thua lỗ thì càng lỗ nhiều hơn. Đây là nguyên lý cơ bản trong quản trị tài chính doanh nghiệp, nhưng điều này chưa được DNXM nhận thức đầy đủ và vận dụng phù hợp. Trong giai đoạn 2009 – 2015, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp khảo sát giảm sút, tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (BEP) giảm liên tục, và ở mức thấp. Lãi suất huy động vốn vay trên thị trường duy trì ở mức cao. Điều kiện này đã làm cho đòn bẩy tài chính khuếch đại theo chiều hướng âm, và thực tế đã chứng minh tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu giảm xuống. Trong giai đoạn 2009 – 2015, hiệu số (BEP – rd) âm, ROE giảm sút, thậm chí âm trong giai đoạn 2011 – 2013 và 2015. Trước thực trạng khó khăn này, việc duy trì hệ số nợ cao và tiếp tục tài trợ bằng nợ vay, đặc biệt nợ vay ngắn hạn, trong giai đoạn phát triển ảm đạm của thị trường bất động sản, thắt chặt đầu tư công, tăng trưởng kinh tế suy giảm của sẽ càng làm suy giảm ROE, gia tăng nguy cơ mất khả năng thanh toán các khoản nợ, tình trạng khó khăn, khánh kiệt gia tăng, đẩy các doanh nghiệp tiếp cận nguy cơ phá sản.
Hai là, các doanh nghiệp xi măng chưa chú trọng xây dựng cấu trúc tài chính phù hợp với từng giai đoạn phát triển doanh nghiệp.
Bắt đầu từ giai đoạn 2005 – 2010, ngành xi măng Việt Nam ngày càng được hoàn thiện theo hướng tiệm cận với thực tiễn đời sống xây dựng, cũng như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, nhiều dự án được đầu tư ồ ạt, với khoảng 30 dự án xi măng được xây dựng, với tổng công suất khoảng 35 triệu tấn. Tuy nhiên, những dự án được xây dựng trong giai đoạn này được tổ chức, triển khai không tốt, nguồn tài trợ để xây dựng và triển khai thực hiện dự án thay vì nguồn vốn chủ sở hữu thì chủ yếu lại được tài trợ từ vốn vay. Cùng với yếu tố khách quan là suy giảm kinh tế, giai đoạn 2008 – 2009 đến nay, tình trạng cung vượt cầu, giá thành tăng, tiêu thụ chậm, hàng tồn kho tăng cao, kết quả kinh doanh và khả năng thanh toán suy giảm. Ngành xi măng đã chứng kiến một loạt tên tuổi như Xi măng Hạ Long, Xi măng Đồng Bành, Xi măng Quang Sơn… đứng trước nguy cơ phá sản. Như vậy, doanh nghiệp ngành xi măng vẫn chưa chú trọng xây dựng cấu trúc tài chính phù hợp với từng giai đoạn phát triển doanh nghiệp. Thay vì tài trợ nguồn vốn chủ sở hữu cho giai đoạn hình thành và phát triển, cùng với sự biến động bất lợi từ môi trường kinh doanh, môi trường vĩ mô thì sử dụng đòn bẩy tài chính cao ẩn chứa nhiều rủi ro đối với sự tồn tại và phát triển của ngành. Số liệu thực tế đã cho thấy hiệu quả kinh doanh giảm xuống, lợi nhuận suy giảm, khả năng thanh toán thấp, mất cân bằng tài chính cho thấy doanh nghiệp xi măng đối mặt với rất nhiều khó khăn.
➯ Xem thêm: Quá trình hình thành và phát triển ngành xi măng Việt Nam
Ba là, quy mô của các doanh nghiệp xi măng chủ yếu là nhỏ và trung bình
Các DNXM chủ yếu có quy mô nhỏ và trung bình (10/16 doanh nghiệp), năng lực tài chính hạn chế, hiệu quả kinh doanh thấp. Nguồn vốn chủ yếu là nợ ngắn hạn, và từ nguồn bên ngoài doanh nghiệp. Quy mô nhỏ và trung bình là yếu tố gây trở ngại cho hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp không có đủ năng lực tài chính để đầu tư sản xuất, nâng cao trình độ công nghệ, giảm chi phí và giá thành sản phẩm. Quy mô nhỏ và trung bình cũng ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp, khả năng huy động vốn chủ sở hữu hạn chế. Quy mô vốn chủ sở hữu của loại hình doanh nghiệp này gần như không đổi trong giai đoạn 2009 – 2015. Phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn điều lệ là rất khó khăn, do kết quả kinh doanh kém nên nguồn lợi nhuận để lại không có. Quy mô nhỏ cũng gây khó khăn trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, đặc biệt là nguồn vốn vay dài hạn. Phát hành trái phiếu huy động vốn không khả thi do DNXM chưa thực sự đủ lớn, tiềm lực đủ mạnh, để tạo được lòng tin đối với giới đầu tư. Hoạt động thẩm định, đánh giá kỹ dự án đầu tư của doanh nghiệp chưa được quan tâm. Một khó khăn rất lớn cho hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp là những quy định về điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay rất chặt chẽ như hoạt động kinh doanh có lãi năm liền kề, không có lỗ lũy kế, không có nợ quá hạn… Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế vĩ mô vẫn còn bất ổn, kinh tế chưa có dấu hiệu phục hồi vững chắc, nguy lạm phát, tiêu thụ xi măng gặp nhiều khó khăn, thị trường bất động sản suy giảm nên các nhà đầu tư sẽ rất thận trọng. Do đó, hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp huy động vốn gặp nhiều khó khăn và doanh nghiệp không mặt mà với phương thức tài trợ này.
Bốn là, yếu tố sở hữu nhà nước cũng ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của DNXM.
Những doanh nghiệp có tỷ lệ SHNN trên vốn điều lệ trên 50% có khả năng tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn. Nguồn vốn chủ sở hữu của loại hình doanh nghiệp này tăng lên và quy mô duy trì ở mức cao hơn rất nhiều so với loại hình doanh nghiệp có tỷ lệ SHNN là 0% và dưới 50%. Doanh nghiệp có tỷ lệ SHNN trên 50% dễ dàng phát hành chứng khoán để bổ sung vốn, điển hình như HT1. Loại hình doanh nghiệp này cũng duy trì hệ số nợ ổn định và ở mức thấp (bình quân 59,44%) hơn rất nhiều so với doanh nghiệp có tỷ lệ SHNN là 0% (72,08%) và dưới 50% (75,45%). Quy mô nợ phải trả của Doanh nghiệp có tỷ lệ SHNN trên 50% cũng cao hơn rất nhiều so với doanh nghiệp còn lại. Như vậy, yếu tố sở hữu nhà nước là nguyên nhân ảnh hưởng rất lớn đến lựa chọn và khả năng điều chỉnh cấu trúc tài chính doanh nghiệp xi măng.
3.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, hiện trạng của nền kinh tế vẫn còn chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế và suy thoái kinh tế.
Trong giai đoạn 2009 – 2015, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được cải thiện nhưng vẫn ở dưới mức tiềm năng. Quá trình phục hồi tăng trưởng đã diễn ra, song rất chậm, khó khăn và còn nhiều bất ổn. Tăng trưởng kinh tế tác động rất lớn đến triển vọng kinh doanh của các doanh nghiệp bất động sản, vật liệu xây dựng nói chung và các doanh nghiệp xi măng nói riêng. Sự đóng băng của thị trường bất động sản ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu tiêu thụ xi măng. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước đang phát triển, chính phủ đang chú trọng đến việc phát triển cơ sở hạ tầng vì vậy sẽ tác động đến sự phát triển của ngành xi măng trong tương lai. Yếu tố này tác động đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ và tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các DNXM.
Trong thời gian qua, lãi suất vay vốn cũng ở mức cao và có sự biến động mạnh khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn vay nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được ổn định. Do đặc điểm ngành, hầu hết các DNXM đều có tỷ lệ nợ khá cao nhằm đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất xi măng, rủi ro tín dụng ngành này khá lớn.
Thứ hai, thị trường vốn tại Việt Nam chưa thực sự phát triển.
Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự phát triển và có nhiều biến động, cụ thể như, tính thanh khoản hạn chế, số lượng doanh nghiệp được niêm yết chưa nhiều, cộng thêm các hạn chế về room cho khối ngoại. Điều này khiến cho việc huy động vốn của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Chỉ những doanh nghiệp có quy mô lớn, thường có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao mới có khả năng tiếp cận nguồn vốn bổ sung từ phát hành chứng khoán. Doanh nghiệp có quy mô nhỏ và trung bình, tiếp cận nguồn vốn thông qua thị trường chứng khoán là rất khó khăn. Do đó, doanh nghiệp vẫn chủ yếu tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Thứ ba, tình trạng phá vỡ quy hoạch của ngành xi măng
Trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn 2009 – 2013, hoạt động ngành xi măng gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân cơ bản do sự phá vỡ quy hoạch sản xuất của ngành xi măng, rất nhiều nhà máy xi măng được đầu tư xây dựng tự phát của địa phương, cho đến những mức đầu tư siêu đắt đỏ của doanh nghiệp từ nguồn vốn vay. Dẫn đến tình trạng cung vượt quá cầu, mức độ cạnh tranh trong ngành khá gây gắt. Mặc dù giá nguyên liệu đầu vào liên tục tăng nhưng giá bán thành phẩm khó tăng, thậm chí giảm theo do nguồn cung dư thừa, vì vậy rất khó khăn cho các doanh nghiệp trong ngành xi măng trong tiêu thụ, hàng tồn kho lớn, hiệu quả kinh doanh suy giảm. Qua đó tác động đến khả năng trả nợ và tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp xi măng.
Đánh giá chung về cấu trúc tài chính của doanh nghiệp xi măng niêm yết tại Việt Nam
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT