Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bảo đảm quyền con người bằng hoạt động kiểm xét xử theo thủ tục sơ thẩm

Khái niệm hội tụ kế toán quốc tế

Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bảo đảm quyền con người bằng hoạt động kiểm xét xử theo thủ tục sơ thẩm

Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, có vị trí và vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Khi xét xử sơ thẩm nếu có sai lầm, thiếu sót hoặc có vi phạm pháp luật đều không bảo vệ được công lý, không đảm bảo được quyền con người, quyền công dân. Để có cơ chế ngăn ngừa, hạn chế và loại trừ, xử lý vi phạm, Điều 23 BLTTHS năm 2003 đã quy định VKSND các cấp được quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Như vậy, kiểm sát xét xử là hoạt động của VKS do luật định nhằm mục đích bảo quyền công dân, quyền con người. Trong giai đoạn xét xử VAHS, khi tham gia phiên tòa ở tất cả các thủ tục xét xử, KSV đồng thời thực hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Việc thực hiện chức năng kiểm sát xét xử VAHS nhằm đảm bảo việc xét xử nghiêm minh đúng pháp luật, đảm bảo quyền công dân, quyền con người. Không một cơ quan nào có thể thay thế được VKS để truy tố người phạm tội trước pháp luật và có trách nhiệm bảo đảm cho việc xét xử của TA được đúng pháp luật.

Để bảo đảm quyền con người trong giai đoạn xét xử VAHS theo thủ tục sơ thẩm, VKS phải kiểm sát hoạt động xét xử nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ nhưng đồng thời phải bảo đảm được quyền con người của những người tham gia tố tụng. VKS phải bảo đảm được quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác như: quyền được nhận các quyết định tố tụng; được biết kết quả điều tra; được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; được nhờ người bào chữa; được đưa ra tài liệu và các chứng cứ khác để bảo vệ mình; được xét xử đúng thẩm quyền, đúng thời hạn luật định và quy định của pháp luật; được kháng cáo, được khiếu nại, tố cáo; được tranh tụng… VKS khi kiểm sát phải bảo đảm cho quyền con người của người tham gia tố tụng có quyền lợi liên quan đến vụ án và người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý được TA thực hiện kịp thời, nghiêm chỉnh, có căn cứ và đúng pháp luật.

Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử của Tòa án… Khi thực hiện chức năng này, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị Tòa án chấm dứt và khắc phục vi phạm; kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm, vi phạm pháp luật để Tòa án cấp trên xem xét lại vụ án theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm [28, tr. 176].

Ở thủ tục xét xử sơ thẩm, bằng hoạt động kiểm sát xét xử bao gồm các hoạt động kiểm sát chuẩn bị xét xử sơ thẩm, xét xử tại phiên tòa và sau khi kết thúc phiên tòa. Giai đoạn chuẩn bị xét xử của TA là bước khởi đầu, chuẩn bị các tiền đề, điều kiện cho việc xét xử tại phiên tòa. Để bảo đảm quyền con người ở thủ tục chuẩn bị xét xử sơ thẩm, VKS phải kiểm sát để bảo đảm quyền con người của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác như, bảo đảm quyền được xét xử đúng thẩm quyền, quyền được xét xử đúng thời hạn luật định, quyền được nhờ người bào chữa. Việc đưa vụ án ra xét xử không đúng thời hạn theo quy định của BLTTHS hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn không đúng đều là hành vi vi phạm pháp luật TTHS và xâm phạm đến quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Kiểm sát hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm là kiểm sát một phần của thủ tục xét xử sơ thẩm, bắt đầu từ khi TA thụ lý vụ án và kết thúc khi vụ án được đưa ra xét xử tại phiên tòa. Hoạt động kiểm sát chuẩn bị xét xử sơ thẩm VAHS có đối tượng là việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trong giai đoạn này, KSV phải kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, kiểm sát việc gửi các các quyết định trên cho bị cáo và những người liên quan đúng thời hạn quy định tại Điều 182 BLTTHS. Đồng thời, kiểm sát việc Thẩm phán được phân công xét xử vụ án đó ra một trong các quyết định: quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án nhằm bảo đảm các quyết định trên được ban hành trong thời hạn luật định, có căn cứ định theo khoản 2 Điều 176 BLTTHS. Việc Thẩm phán được phân công xét xử có hành vi và ra bất kỳ quyết định nào trái pháp luật đều ảnh hưởng đến quyền con người, làm cho vụ án giải quyết kéo dài, bị cáo và người liên quan không được nhận hoặc nhận các quyết định của TA chậm sẽ ảnh hưởng đến sự chủ động, quyền nhanh chóng tiếp cận trợ giúp pháp lý của họ…

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, TA có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng (như áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn). Ở thủ tục này, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 177 BLTTHS mà không cần có sự phê chuẩn của VKS. Để bảo đảm quyền con người ở trường hợp áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, KSV phải kiểm sát được thẩm quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án quyết định, còn các trường hợp khác do Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà quyết định; thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 BLTTHS. Ngoài ra, kiểm sát việc TA giao quyết định trên cho bị can, bị cáo, trại tạm giam nơi bị can, bị cáo để bảo đảm quyền con người của họ không bị vi phạm.

Quyết định đưa vụ án ra xét xử của TA phải nêu rõ thành phần HĐXX; thời gian, địa điểm mở phiên toà; tội danh và điều khoản của BLHS mà VKS áp dụng đối với bị cáo; sự tham gia của người bảo chữa; người giám hộ cho người chưa thành niên; những người được triệu tập đến phiên toà và những nội dung khác được quy định tại Điều 178 BLTTHS. Để bảo đảm đúng pháp luật ở quyết định đưa vụ án ra xét xử nhằm bảo đảm quyền con người, KSV phải kiểm sát chặt chẽ các nội dung trên kịp thời phát hiện sai sót, vi phạm pháp luật để yêu cầu Thẩm phán khắc phục nhanh chóng. Ngoài việc kiểm sát nội dung và thời hạn Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật, thì cần kiểm sát việc giao quyết định này cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa. Những hoạt động này, nhằm đảm bảo quyền của bị cáo như: quyền được biết mình bị xét xử về tội gì; quyền được xét xử đúng thời hạn luật định; quyền được bào chữa, tham gia bào chữa; quyền được đề nghị triệu tập người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự nếu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử không có hoặc chưa đầy đủ; quyền được bảo đảm chuẩn bị xét xử của những người tham gia tố tụng đối với các vấn đề có liên quan đến họ. Khi kiểm sát phát hiện thấy nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa đầy đủ hoặc chưa đúng thì VKS phải kiến nghị kịp thời với TA để khắc phục.

Trường hợp, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. VKS phải kiểm sát thẩm quyền, thời hạn, yêu cầu và các căn cứ trả hồ sơ theo quy định tại khoản 1 Điều 179 BLTTHS, để tránh lạm dụng hoặc thiếu căn cứ pháp luật khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết án, tác động tiêu cực đến quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Để bảo đảm quyền con người trong hoạt động chuẩn bị xét xử của TA, KSV kiểm sát thẩm quyền, tính có căn cứ, thời hạn ban hành quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 160, Điều 164, Điều 180 BLTTHS.

Phiên tòa xét xử sơ thẩm là trung tâm của TTHS, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự, KSV ngoài nhiệm vụ thực hành quyền công tố còn thực hiện nhiệm vụ kiểm sát hoạt động xét xử của TA, người tham gia tố tụng với mục đích đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và công minh, quyền con người được bảo đảm trong quá trình xét xử. “Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát mọi diễn biến của phiên tòa, nhất là việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự của Hội đồng xét xử… Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ quá trình xét hỏi, trình tự xét hỏi, nội dung xét hỏi” [27, tr. 25]. KSV được phân công sẽ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của HĐXX; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa.

Bất kỳ vụ án sơ thẩm hình sự nào cũng đều phải trải qua thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa thực hiện đúng pháp luật tố tụng không những đảm bảo quyền của bị cáo, người tham gia tố tụng mà còn giúp cho các hoạt động xét xử tiếp theo được tốt hơn. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì trước khi bắt đầu phiên tòa, Thư ký phiên tòa phải phổ biến nội quy phiên tòa; yêu cầu những người đã được HĐXX triệu tập đến phiên tòa nộp giấy triệu tập. KSV phải kiểm sát chặt chẽ thủ tục này, khi gần đến giờ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự, KSV ngồi trước ở ghế dành cho đại diện VKS để kiểm sát việc thư ký TA phổ biến nội quy phiên tòa. Việc thực hiện đúng nội quy phiên tòa, những người được triệu tập đến phiên tòa nộp giấy triệu tập sẽ giúp cho hoạt động xét xử của TA diễn ra đúng pháp luật, các quyền con người được bảo đảm. HĐXX sẽ nắm được những ai được triệu tập đến tham dự phiên tòa và những ai cung cấp thêm chứng cứ, tài liệu để HĐXX xem xét và có kế hoạch hoãn phiên tòa hay tiếp tục phiên tòa, tránh hiện tượng kéo dài thời gian ảnh hưởng đến quyền được xét xử đúng thời gian luật định của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác…. Do đó, bảo đảm sự có mặt của những người tham gia tố tụng đã có mặt tại phiên tòa có vai trò rất quan trọng trong hoạt động xét xử.

Theo quy định tại Điều 201 BLTTHS hiện hành, thì khi bắt đầu phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, đây là thủ tục bắt buộc và được xem là hình thức khai mạc phiên tòa. KSV phải kiểm sát thủ tục này, nếu chủ tọa phiên tòa không đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử là vi phạm thủ tục tố tụng, quyền con người không được bảo đảm.

Tại phiên tòa, sự có mặt của những người tham gia tố tụng phải bảo đảm đúng theo quy định tại các Điều 187, Điều 190, Điều 191, Điều 192, Điều 193 BLTTHS. Để bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng ở giai đoạn này, KSV phải kiểm sát việc chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước và yêu cầu của những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa. Các yêu cầu của bị cáo hoặc nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, luật sư có đề nghị thay đổi thành phần HĐXX, KSV, thay đổi người phiên dịch, người giám định hoặc đề nghị triệu tập thêm người làm chứng sẽ là một trong những lý do để có thể dẫn đến hoãn phiên tòa. KSV phải xem xét lý do mà bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đề nghị thay đổi trên cơ sở đối chiếu các căn cứ tại các Điều 14, Điều 42, Điều 45, Điều 46, Điều 61 của BLTTHS quy định về điều kiện phải từ chối hoặc phải thay đổi thành Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa. Đây là quy định mang tính chất đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, KSV phải kiểm sát chặt chẽ quy định này để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Nhằm mục đích “ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực của chính các Thẩm phán” [2, tr. 22]. Sau khi kiểm tra căn cước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Đây là quyền rất quan trọng của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Để bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự tại phiên tòa, KSV phải kiểm sát thành phần HĐXX. BLTTHS năm 2003 quy định thành phần HĐXX sơ thẩm như sau:

Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm [22, Điều 185].

Quy định thành phần HĐXX sơ thẩm nhằm bảo đảm nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số; nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, nhằm bảo đảm quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng. Việc kiểm sát thành phần HĐXX không chỉ kiểm sát ở số lượng Thẩm phán hay Hội thẩm bao nhiêu người mà còn kiểm sát thành phần HĐXX phải có mặt của Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (nếu vụ án có bị cáo là người chưa thành niên). Có khi ngoài thành phần HĐXX có thể có Thẩm phán và Hội thẩm dự khuyết nữa. KSV phải kiểm tra Thẩm phán, Hội thẩm chính thức và dự khuyết có được ghi đầy đủ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử không, phải kiểm sát thành phần HĐXX trong quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đọc có trùng nhau hay không. Ngoài ra còn phải kiểm sát HĐXX có ai thuộc trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi tham gia xét xử theo quy định tại Điều 42, Điều 46, Điều 47, Điều 186 BLTTHS không.

Để chuyển sang thủ tục thẩm vấn, KSV phải kiểm sát việc HĐXX bảo đảm quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc quyền đưa thêm vật chứng và tài liệu liên quan tới vụ án ra xem xét tại phiên tòa của những người tham gia tố tụng (Điều 203, Điều 204, Điều 205 BLTTHS) và kiểm sát việc bảo đảm thực hiện các quyền của họ. Ngoài ra, KSV phải kiểm sát được thẩm quyền của TA cấp sơ thẩm – đó là thẩm quyền xét xử trong “giới hạn của việc xét xử” được quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS năm 2003.

Trong giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa theo thủ tục xét xử sơ thẩm trách nhiệm của HĐXX là phải trực tiếp làm rõ các chứng cứ của vụ án đã thu thập ở các giai đoạn tố tụng tiền xét xử và các chứng cứ, tài liệu, yêu cầu mới tại phiên tòa như: xét hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, kết luận giám định, xem xét các vật chứng, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, công bố các lời khai đã được thu thập tại cơ quan điều tra. v.v… Đối với thủ tục xét hỏi, cần được kiểm sát chặt chẽ và bảo đảm các quyền được hỏi, quyền yêu cầu của những người tham gia phiên tòa. Nếu HĐXX có vi phạm pháp luật như thực hiện không đúng các thủ tục xét hỏi bị cáo, người làm chứng, không công bố kết luận định giá tài sản, kết luận giám định… hoặc HĐXX không bảo đảm các quyền yêu cầu, quyền được hỏi của những người tham gia tố tụng, thì KSV phải yêu cầu HĐXX chấp hành đúng các quy định của pháp luật TTHS, nhằm bảo đảm quyền con người của bị cáo và những người tham gia tố tụng. BLTTHS quy định về công bố lời khai tại cơ quan điều tra (Điều 208); bị cáo có quyền được HĐXX hỏi đã nhận được cáo trạng của VKS chưa và bản cáo trạng bị cáo nhận được có nội dung giống với nội dung cáo trạng Đại diện VKS công bố tại phiên tòa hôm nay không; bị cáo có quyền được HĐXX hỏi đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa, thời gian nào; những người tham gia phiên toà có quyền đề nghị với chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ (khoản 3 Điều 209); các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án hoặc mới đưa ra khi xét hỏi đều phải được công bố tại phiên tòa (Điều 214); nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, thì HĐXX phải quyết định trở lại việc xét hỏi… Như vậy, BLTTHS đã quy định thủ tục xét hỏi rất chặt chẽ nhằm mục đích tránh hiện tượng lạm quyền và vi phạm pháp luật trong việc xét hỏi dẫn đến nhận định, đánh giá vụ án thiếu khách quan và toàn diện, tác động tiêu cực đến quyền con người. Đây là những cơ sở pháp lý rất quan trọng để KSV chú trọng để kiểm sát HĐXX và người tham gia tố tụng tại phiên tòa nhằm bảo đảm quyền con người trong thủ tục xét hỏi được tuân thủ.

Việc tuyên án tại phiên tòa chỉ diễn ra sau khi HĐXX nghị án, cùng với các hoạt động khác, thì đây là hoạt động thể hiện quan điểm của HĐXX lớn nhất trong suốt quá trình TTHS. Tuyên án là bắt buộc tại phiên tòa sơ thẩm, để khẳng định một người có tội hay không, nếu có tội thì tội gì, khung hình phạt, căn cứ pháp lý áp dụng để tuyên án, bồi thường thiệt hại, giải quyết quyền lợi của những người tham gia tố tụng khác có quyền lợi liên quan đến vụ án ra sao. Bản án tuyên tại tòa phải vừa đúng với biên bản nghị án (thể hiện quan điểm của tập thể HĐXX và quyết định theo đa số), vừa đúng với bản án mà TA tống đạt cho bị cáo, VKS và một số người có liên quan đến vụ án (nếu có yêu cầu trích lục hoặc sao bản án). Khi tuyên án, Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa ngoài tuyên phần khác, thì phải tuyên bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để bảo đảm quyền của bị cáo. Nếu bị cáo phải tiếp tục tạm giam, thì phải tuyên sau khi tuyên bản án là tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm cho việc thi hành án. Các hoạt động trên đều thể hiện mục đích bảo đảm quyền con người, nếu có sai lầm, vi phạm pháp luật TTHS… thì không những pháp luật không được chấp hành nghiêm chỉnh, mà quyền con người bị vi phạm. Nguyên nhân có thể do lạm dụng quyền lực, do hạn chế về nghiệp vụ v.v…

KSV không chỉ kiểm sát thủ tục chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thủ tục xét xử tại phiên tòa sơ thẩm mà còn kiểm sát khi kết thúc xét xử sơ thẩm, nhằm bảo đảm các hoạt động của TA sau phiên tòa đúng pháp luật. Kiểm sát thủ tục sau phiên tòa là việc làm cần thiết có ý nghĩa rất quan trọng để bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo và những người có quyền kháng cáo và quyền kháng nghị của VKS. Đây là giai đoạn rất quan trọng để xem xét sửa chữa những thiếu sót, sai lầm hoặc vi phạm thủ tục tố tụng trong xét xử, đặc biệt là bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

Phạm vi bảo đảm quyền con người sau khi kết thúc phiên tòa xét xử sơ thẩm bằng hoạt động kiểm sát xét xử của VKS bắt đầu sau khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phiên tòa sơ thẩm và kết thúc khi bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị. Đối tượng hướng đến để bảo đảm quyền con người bằng hoạt động kiểm sát xét xử của VKS sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm là bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật và hoạt động chấp hành pháp luật của TA sau phiên tòa sơ thẩm (biên bản phiên tòa; bản án, quyết định; việc giao bản án, quyết định sơ thẩm). Mục đích hướng đến của hoạt động kiểm sát khi kết thúc phiên tòa xét xử sơ thẩm là phát hiện các vi phạm pháp luật, các thiếu sót ảnh hưởng đến quyền con người và sử dụng pháp luật để ngăn ngừa, bảo vệ quyền con người. Bởi vì, sau phiên tòa xét xử sơ thẩm, đòi hỏi bản án sơ thẩm tuyên tại phiên tòa phải đúng với nội dung bản án mà TA giao cho những người được pháp luật quy định có quyền được nhận bản án hoặc quyền sao bản án. Đồng thời, bản án phải phán ánh đúng như tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, như biên bản nghị án của HĐXX. Nội dung bản án phải tuân thủ theo quy định tại Điều 224 BLTTHS; việc trả tự do hoặc bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án phải tuân thủ đúng Điều 227, Điều 228 BLTTHS; việc bảo đảm quyền cho bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó được xem biên bản phiên tòa, có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 200 BLTTHS phải được tuyệt đối tuân thủ. Đối với quyền được nhận bản án sơ thẩm, Điều 229 BLTTHS đã quy định quyền của bị cáo phải được TA giao bản án trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bị cáo trốn tránh mà truy nã nhưng không có kết quả; bị cáo đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập đến phiên tòa, thì trong thời hạn 10 ngày (kể từ ngày tuyên án), bản án của bị cáo phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo. Đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền yêu cầu TA cấp trích lục bản án hoặc bản sao bản án. Nếu TA vi phạm như giao bản án hoặc quyết định quá 10 ngày hoặc không giao sẽ ảnh hướng đến quyền được biết bản án để kháng cáo, từ đó ảnh hưởng đến các quyền khác của bị cáo, bị hại v.v… Vì bản án sơ thẩm chỉ được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, nếu không có kháng cáo hoặc kháng nghị bản án đó sẽ có hiệu lực pháp luật, từ đó quyền được xét xử phúc thẩm sẽ không được đảm bảo.

Quyền con người trong giai đoạn này có thể bị xâm phạm do hành vi vi phạm pháp luật. Quyền con người bị xâm phạm có thể là quyền của bị cáo hoặc quyền của người tham gia tố tụng khác như bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án v.v… Quyền con người của những chủ thể này có thể là những quyền được pháp luật TTHS quy định như: quyền được kiểm tra và đề nghị sửa chữa, bổ sung biên bản phiên tòa; quyền được nhận bản án hoặc trích lục hoặc bản sao bản án đúng với bản án đã được tuyên tại tòa; quyền được biết mình phạm tội không, tội gì, hình phạt và các vấn đề khác theo quy định của pháp luật; quyền được biết có bị bắt tạm giam hay trả tự do tại phiên tòa và lý do; quyền được kháng cáo. Như vậy, có thể thấy rằng các quyền trên được BLTTHS năm 2003 cụ thể hóa từ quyền được xét xử công bằng; quyền được xét xử bình đẳng bởi TA độc lập, không thiên vị; quyền được xét xử đúng thời hạn luật định; quyền được kháng cáo; quyền được pháp luật bảo vệ trước tội phạm…

Quá trình xét VAHS không thể tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật, không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo, người tham gia tố tụng khác. Đối với những vi phạm pháp luật có tính chất, mức độ nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan v.v… thì phải kháng nghị phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm (tùy thuộc vào bản án, quyết định có hiệu lực hay chưa có hiệu lực). Đối với những vi phạm ít nghiêm trọng không cần thiết phải kháng nghị thì có thể ngay tại phiên tòa sơ thẩm đó, KSV yêu cầu TA thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ quy định của BLTTHS hoặc sau phiên tòa kết thúc sẽ kiến nghị. Như vậy quyền yêu cầu, quyền kiến nghị được áp dụng chung cho cả TA và người tham gia tố tụng. Đồng thời khi có vi phạm, để thực hiện quyền yêu cầu, quyền kiến nghị thì các vi phạm pháp luật của HĐXX hoặc người tham gia tố tụng cũng chưa đến mức phải kháng nghị. Quyền yêu cầu chỉ có thể được áp dụng ngay tại phiên tòa đó mà không để khi kết thúc phiên tòa mới thực hiện, vì tính chất và đòi hỏi của quyền yêu cầu thường không bằng văn bản mà trực tiếp KSV yêu cầu HĐXX, người tham gia tố tụng phải thực hiện ngay hoặc khắc phục ngay để bảo đảm vụ án được xét xử nghiêm minh, thống nhất, đúng pháp luật. Yêu cầu do KSV của VKS cùng cấp thực hiện, bởi xuất phát từ tính chất của yêu cầu khắc phục vi phạm chỉ có thể về hành vi mà không thể về quyết định tố tụng. Còn quyền kiến nghị thì ngược lại, chỉ được áp dụng khi phiên tòa sơ thẩm đã kết thúc và bao giờ cũng được thể hiện bằng văn bản do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng ký ban hành, đồng thời kiến nghị chỉ ban hành đối với đối tượng là TA hoặc người tham gia tố tụng là các cá nhân, tổ chức như Luật sư, Văn phòng luật sư… có vi phạm pháp luật. Kiến nghị bao gồm cả về hành vi tố tụng và về quyết định của TA có vi phạm pháp luật (không kể đó là vi phạm pháp luật tố tụng hình sự hay hình sự hoặc pháp luật khác có liên quan đến vụ án). Kiến nghị yêu cầu TA khắc phục vi phạm có thể do VKS cùng cấp hoặc cấp trên ban hành qua công tác kiểm sát và kiểm tra hồ sơ, bản án hoặc quyết định của TA cấp sơ thẩm. So với yêu cầu thì kiến nghị có bản chất và mức độ nghiêm trọng hơn, song hiệu quả thường gián tiếp so với hiệu quả của quyền yêu cầu. Quá trình kiểm sát xét xử sơ thẩm, KSV được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm sẽ kiểm sát chặt chẽ đối tượng bị kiểm sát trên cơ sở pháp luật quy định để phát hiện vi phạm trong xét xử. Đây là hoạt động có tính liên tục và mang tính khách quan được biểu hiện qua việc phát hiện vi phạm về hành vi tố tụng và áp dụng không có căn cứ, áp dụng sai pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng và pháp luật khác có liên quan đến vụ án trong quá trình xét xử của TA. Khoản 3 và khoản 6 Điều 19 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định

Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật (…); thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hành khác trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự [24, Điều 19].

Trên cơ sở phát hiện các vi phạm pháp luật của HĐXX, người tham gia tố tụng trong quá trình xét xử vụ án hình sự sơ thẩm của TA. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, quyết định tố tụng có vi phạm pháp luật và căn cứ vào quy định của BLTTHS, Luật tổ chức VKSND để VKS yêu cầu khắc phục vi phạm hoặc ban hành kiến nghị, kháng nghị. VKS thông qua KSV có thể thực hiện quyền yêu cầu HĐXX, người tham gia tố tụng khắc phục vi phạm tại phiên tòa hoặc VKS có thể ban hành kiến nghị đối với TA ngay sau khi kết thúc phiên tòa nhưng cũng có thể tổng hợp vi phạm lại để kiến nghị chung.

Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về bảo đảm quyền con người bằng hoạt động kiểm xét xử theo thủ tục sơ thẩm

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?