Nội dung chủ yếu của giải pháp tài chính cho đào tạo nghề chất lượng cao

phát triển bền vững công nghiệp

Mục lục

Nội dung chủ yếu của giải pháp tài chính cho đào tạo nghề chất lượng cao

1. Giải pháp về huy động nguồn lực tài chính

Tài chính cho đào tạo nghề nói chung và cho đào tạo nghề chất lượng cao nói riêng được huy động từ nhiều nguồn, trong đó bao gồm nguồn tài chính từ NSNN và nguồn tài chính ngoài NSNN.

1.1. Nguồn NSNN và vai trò của NSNN với đào tạo nghề chất lượng cao

Tài chính cho đào tạo nghề từ nguồn NSNN được cung cấp thông qua các khoản chi ngân sách cho hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo nghề, chi xây dựng cơ bản và các chương trình mục tiêu, chương trình mục tiêu quốc gia… Với vai trò là một giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia trực tiếp vào lực lượng sản xuất của nền kinh tế, từ đó quyết định đến việc phát triển kinh tế xã hội nên việc đầu tư cho đào tạo nghề là một yêu cầu tất yếu của mỗi đất nước. Cũng xuất phát từ đặc thù yếu thế của đào tạo nghề so với các lĩnh vực khác nói chung và với các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân nói riêng mà hầu hết các nhà đầu tư cá nhân hay tổ chức trong và ngoài nước đều không muốn tham gia đầu tư cho đào tạo nghề do đòi hỏi vốn lớn lại thu hồi vốn chậm. Do đó, để đạt mục tiêu phát triển nền kinh tế thì việc đầu tư từ NSNN vẫn phải là nguồn lực chủ đạo. Hơn nữa, chỉ có nhà nước mới có đủ nguồn lực để xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế trong xã hội thoát khỏi khó khăn thông qua những khóa đào tạo, tạo công ăn việc làm. Đồng thời, nhà nước đầu tư phát triển nhân lực cho những ngành kinh tế mũi nhọn, ngành nghề nặng nhọc độc hại mà xã hội rất cần nhưng không thu hút được người học… để phục vụ phát triển kinh tế xã hội trong mỗi thời kỳ.

Vai trò của NSNN không chỉ đơn thuần là cung cấp tiềm lực tài chính để duy trì củng cố các hoạt động đào tạo nghề mà còn có tác dụng định hướng hoạt động đào tạo nghề phát triển theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, cụ thể:

Thứ nhất, NSNN là nguồn tài chính cơ bản để duy trì và phát triển của hệ thống đào tạo nghề theo đúng đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Thông qua cơ cấu, định mức chi ngân sách chi đào tạo nghề có tác dụng điều chỉnh cơ cấu, quy mô đào tạo nghề toàn ngành. Trong điều kiện đa dạng hóa đào tạo nghề thì vai trò định hướng của Nhà nước thông qua chi ngân sách để điều phối là rất quan trọng, đảm bảo cho đào tạo nghề phát triển theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, NSNN đóng vai trò quyết định trong việc củng cố tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Giúp cho đội ngũ cán bộ giảng dạy có điều kiện không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời, hàng năm NSNN đã tài trợ cho việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy ở trong và ngoài nước.

Thứ ba, NSNN đầu tư cho đào tạo nghề tạo điều kiện ban đầu để xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị. Đây là khoản chi có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo nghề. Điều này là cơ sở, là tiền đề để có thể thu hút được nguồn tài chính từ phía nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước. Thu hút các nguồn tài chính từ lao động sản xuất, hợp đồng nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ của các cơ sở đào tạo nghề.

Thứ tư, NSNN đầu tư các mục tiêu, chương trình trong lĩnh vực đào tạo nghề, qua đó sẽ tạo điều kiện cho các trường tăng cường cơ sở vật chất, tăng cường trang thiết bị dạy học, tạo điều kiện bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy tại các chương trình bồi dưỡng giáo viên và xây dựng, biên soạn chương trình, giáo trình đào tạo nghề…, thí điểm tổ chức đào tạo theo các chương trình chuyển giao từ các nước tiên tiến trên thế giới.

Thứ năm, NSNN đầu tư cho đào tạo nghề đã góp phần giải quyết những vấn đề thuộc chính sách xã hội như: chính sách dân tộc, khu vực, con gia đình chính sách và các đối tượng yếu thế trong xã hội…

1.2. Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của các CSDN

Phát triển đào tạo nghề không chỉ đem lại lợi ích cá nhân người học nghề mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội; vì vậy ngoài nguồn tài chính từ NSNN là nguồn tài chính chủ yếu đầu tư cho đào tạo nghề thì ở hầu hết các quốc gia đều có cơ chế chính sách huy động các nguồn tài chính ngoài NSNN để phát triển đào tạo nghề nhằm đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của mọi công dân và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế xã hội.

Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp bao gồm:

1.2.1. Học phí, lệ phí tuyển sinh học nghề

Đào tạo nghề là hàng hoá công cộng nhưng là hàng hoá công cộng không thuần tuý vì không khó khăn gì trong việc xác định các đối tượng trực tiếp sử dụng dịch vụ đào tạo nghề, những người trực tiếp sử dụng dịch vụ đào tạo nghề là những người trực tiếp được hưởng lợi do đào tạo nghề đem lại. Vì vậy, người học phải có trách nhiệm đóng góp thông qua phí dịch vụ đào tạo nghề để tạo lập nguồn tài chính đầu tư cho đào tạo nghề. Tạo lập nguồn tài chính đầu tư cho đào tạo nghề thông qua việc thu phí đào tạo nghề có tác dụng nâng cao trách nhiệm của người dân và trách nhiệm của các cơ sở cung cấp dịch vụ đào tạo nghề trong việc đảm bảo chất lượng và hiệu qủa đào tạo nghề, từ đó thúc đẩy đào tạo nghề phát triển về quy mô, chất lượng và hiệu qủa.

Những tác động tích cực của chính sách thu học phí:

– Thu học phí góp phần xóa bỏ chế độ bao cấp tràn lan trong cung cấp dịch vụ đào tạo nghề; tạo thêm nguồn tài chính đáng kể đối với các cơ sở đào tạo nghề để tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục, cải thiện đời sống của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trong cơ sở đào tạo nghề.

– Góp phần nâng cao nhận thức về trách nhiệm của người dân trong việc chăm lo sự nghiệp đào tạo nghề. Hơn nữa học phí đã thể hiện được chính sách ưu tiên miễn, giảm cho các đối tượng chính sách xã hội.

– Học phí ở các cơ sở GD – ĐT công lập nói chung và các cơ sở đào tạo nghề công lập nói riêng đã từng bước đáp ứng được yêu cầu quản lý của Nhà nước trên các mặt:

+ Học phí được thống nhất quy định theo thẩm quyền, thể hiện được tương quan giữa từng bậc đào tạo.

+ Việc quy định khung học phí một mặt tạo điều kiện cho Nhà nước kiểm soát, mặt khác đã tạo quyền chủ động cho các trường và các địa phương trong việc tự xây dựng quy định mức thu học phí cụ thể; từ đó đảm bảo mức thu học phí phù hợp với khả năng đóng góp của dân cư từng địa phương và phù hợp với yêu cầu phát triển của từng ngành nghề đào tạo, hình thức đào tạo, hoàn cảnh của học sinh.

Bên cạnh đó để đảm bảo bình đẳng về cơ hội học tập cho mọi công dân, các quốc gia đều có chính sách miễn, giảm học phí cho các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo…đặc biệt là chính sách tín dụng cho người học. Song song với việc hoàn thiện chính sách thu học phí và lệ phí tuyển sinh theo giá cung ứng dịch vụ, Nhà nước cũng hoàn thiện về chính sách tín dụng cho người học để giúp cho các đối tượng là người nghèo cũng được tham gia học nghề, tạo cơ hội về công ăn việc làm.

1.2.2. Thu từ hoạt động sự nghiệp khác

Bao gồm các khoản thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tư vấn, chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết… với các CSDN khác hoặc với các tổ chức, cá nhân của cơ sở đào tạo nghề. Các hoạt động này giúp CSDN tăng cường khai thác cơ sở vật chất như máy móc thiết bị, giảng đường, phòng học; sản phẩm thực hành, sản phẩm thí nghiệm… để tăng thu nhập cho cán bộ, giáo viên. Đồng thời, các hoạt động liên doanh, liên kết với doanh nghiệp còn giúp giáo viên và học sinh, sinh viên của các CSDN được giao lưu học hỏi, tiếp cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, nâng cao tay nghề.

1.3. Đầu tư, tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước

Chủ trương xã hội hóa của nhà nước về văn hóa, giáo dục và thể thao đã tạo điều kiện hay tiền đề để các cá nhân hay tổ chức có trách nhiệm tham gia đóng góp chia sẻ chi phí đào tạo nghề với nhà nước. Nhà nước cần phải có chế tài đủ mạnh để các tổ chức đặc biệt là doanh nghiệp với trách nhiệm là người thụ hưởng sản phẩm của đào tạo nghề phải đóng góp chi phí cho đào tạo nghề.

Về đầu tư, tài trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, đây là nguồn tài chính quan trọng cho phát triển đào tạo nghề từ các nguồn viện trợ phát triển ODA, đầu tư của nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Các CSDN có thể nhận hỗ trợ tài chính trực tiếp để xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị… nhưng cũng có thể nhận được những gói hỗ trợ kỹ thuật từ các nước tiên tiến để xây dựng chương trình, giáo trình, nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.

Với chủ trương xã hội hoá đào tạo nghề, đa dạng hoá các hình thức huy động nguồn tài chính để huy động được một nguồn tài chính đáng kể từ nguồn ngoài ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề. Nguồn kinh phí này đã bổ sung những thiếu hụt của ngân sách, góp phần vào việc duy trì, ổn định và phát triển sự nghiệp đào tạo nghề. Vai trò đó được thể hiện như sau:

Thứ nhất, các khoản thu ngoài NSNN góp phần tăng nguồn đầu tư cho sự nghiệp đào tạo nghề để củng cố và mở rộng, tăng cường cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, cải thiện điều kiện giảng dạy và học tập, cải thiện đời sống của cán bộ giảng dạy và học sinh, sinh viên học nghề.

Thứ hai, thực hiện đa dạng các nguồn tài chính đầu tư cho đào tạo nghề, qua đó phát huy trách nhiệm của cộng đồng với sự nghiệp đào tạo nghề; khai thác được tiềm năng của các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội đầu tư cho đào tạo nghề.

Thứ ba, phát huy được tính tự chủ của các cơ sở đào tạo nghề trong việc khai thác nguồn tài chính đầu tư cho đào tạo nghề, xoá bỏ tư tưởng trông chờ vào nguồn ngân sách cấp. Nguồn tài chính ngoài ngân sách có tiềm năng rất lớn, nếu chúng ta có chính sách, giải pháp huy động có hiệu quả.

Thứ tư, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở đào tạo nghề, thúc đẩy các cơ sở đào tạo nghề nâng cao chất lượng.

2. Giải pháp về đầu tư, sử dụng nguồn lực tài chính

Việc đầu tư, sử dụng nguồn lực tài chính dạy nghề hiện nay thường được chia làm 03 nội dung: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi CTMTQG.

2.1. Kinh phí chi thường xuyên

Kinh phí chi thường xuyên là nguồn kinh phí chủ yếu để thực hiện chỉ tiêu đào tạo nghề. Chi thường xuyên là các khoản chi hàng ngày của các cơ sở đào tạo nghề để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình. Kinh phí chi thường xuyên bao gồm các nội dung: chi lương, phụ cấp lương, chi công tác phí, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo quỹ lương; chi cho xây dựng chương trình, giáo trình; chi mua nguyên nhiên vật liệu thực tập, chi phí điện, nước, điện thoại, internet…; chi mua sắm, sửa chữa các trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo nghề.

2.2. Kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản

Chi đầu tư xây dựng cơ bản của NSNN cho đào tạo nghề nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho từng cơ sở đào tạo nghề. Chi đầu tư xây dựng cơ bản cho đào tạo nghề bao gồm: xây mới hay cải tạo nâng cấp các công trình như nhà xưởng, thư viện, phòng học hay nhà điều hành của các CSDN. Chi đầu tư xây dựng cơ bản cũng bao gồm việc mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo nghề.

Với mục tiêu đào tạo nghề chất lượng cao thì việc ưu tiên đầu tư để xây dựng nhà xưởng, thiết bị cho thực hành nghề trong quá trình đào tạo là hết sức cần thiết.

2.3. Kinh phí chương trình mục tiêu Quốc gia

Để thực hiện những mục tiêu cụ thể có tính cấp bách hoặc giải quyết những tồn tại lớn trong đào tạo nghề ở những thời kỳ cụ thể nhằm tạo ra những chuyển biến tích cực về cơ cấu, nội dung chương trình, chất lượng và hiệu qủa trong giáo dục, các quốc gia và đặc biệt các nước đang phát triển thường sử dụng một phần nguồn tài chính từ NSNN để thực hiện các chương trình mục tiêu giáo dục, trong đó có đào tạo nghề. Tuỳ thuộc vào những mục tiêu cụ thể có tính cấp bách về đào tạo nghề ở từng thời kỳ mà mỗi quốc gia lựa chọn những chương trình mục tiêu khác nhau. Các chương trình mục tiêu cho giáo dục bao gồm về lĩnh vực đào tạo nghề thường được thực hiện là:

– Chương trình mục tiêu tăng cường cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo nghề

– Chương trình mục tiêu nâng cao chất lượng và chuẩn hoá đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đào tạo nghề

– Chương trình mục tiêu về đổi mới các chương trình, nội dung giáo trình

– Chương trình mục tiêu về đổi mới và phát triển đào tạo nghề và các chương trình mục tiêu khác.

Với mỗi chương trình ở từng thời điểm nhất định sẽ có giải pháp tài chính phù hợp. Các giải pháp tài chính thường được thực hiện đối với các chương trình mục tiêu quốc gia về lĩnh vực đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề chất lượng cao bao gồm:

(1) Đầu tư nâng cao năng lực cho các cơ sở dạy nghề trọng điểm.

Trên cơ sở mạng lưới các cơ sở dạy nghề trong cả nước, các nhà quản lý phải lựa chọn ra các cơ sở dạy nghề cần ưu tiên để hỗ trợ đầu tư đảm bảo mục tiêu phát triển đào tạo nghề ở mỗi thời kỳ. Với nguồn lực được đầu tư từ NSNN và các nguồn lực hợp pháp khác, các cơ sở dạy nghề chủ động trình cơ quan chủ quản kế hoạch và thực hiện đầu tư trên cơ sở nhu cầu của đơn vị.

Nội dung chi thường bao gồm: Tăng cường cơ sở vật chất thiết bị trong đó có cả tăng cường công nghệ thông tin trong quản lý dạy và học; Đào tạo, bồi dưỡng tăng cường năng lực cho giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý; Phát triển chương trình, giáo trình; tiêu chuẩn cơ sở vật chất thiết bị; Phát triển hệ thống kiểm định chất lượng đào tạo nghề; Phát triển hệ thống đánh giá kỹ năng nghề quốc gia.

 (2) Đầu tư tập trung cho các nghề trọng điểm

Trên cơ sở danh mục nghề được ban hành, cơ quan quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở trung ương phối hợp với các bộ ngành, địa phương xác định các ngành nghề cần ưu tiên đầu tư phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội của ngành, địa phương và quy hoạch cơ sở dạy nghề được đầu tư nghề trọng điểm. Theo đó, các cơ sở dạy nghề thực hiện đầu tư các nghề đã được quy hoạch đối với nguồn kinh phí được phê duyệt để đầu tư nghề trọng điểm theo kế hoạch của cơ quan quản lý cấp trên.

Xuất phát từ việc nguồn lực là có hạn nên để các cơ sở dạy nghề chủ động đầu tư các nghề dẫn tới việc đầu tư dàn trải và không đồng bộ các điều kiện đảm bảo chất lượng nên cần phải thống nhất tập trung đầu tư theo nghề trọng điểm. Việc đầu tư nghề trọng điểm cũng gồm các nội dung như việc đầu tư cho cơ sở dạy nghề trọng điểm nhưng chỉ cho các nghề đã được quy hoạch mà thôi.

 (3) Thí điểm đặt hàng đào tạo nghề

Do những hạn chế của việc giao dự toán hiện tại là chưa gắn với chỉ tiêu đào tạo, sản phẩm đầu ra và kết quả cuối cùng nên các trường đào tạo nghề tập trung vào những nghề dễ đào tạo, chi phí thấp. Việc giao dự toán thường xuyên của NSNN cho các đơn vị sự nghiệp như hiện nay cũng chưa được xác định trên cơ sở tính đúng tính đủ chi phí đào tạo nên khó khăn tài chính cho các đơn vị nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là những nghề đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật mới, chi phí đào tạo cao. Do đó, những nghề cần cho ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn hay những nghề nặng nhọc, độc hại, chi phí đào tạo cao, khó tuyển sinh, không hấp dẫn đối với trường đào tạo nghề và người học nghề thì ít được quan tâm dẫn tới sự thiếu hụt lao động có nghề ở những ngành, nghề này. Như vậy, cần phải thay đổi hình thức cấp phát kinh phí của NSNN như hiện nay, để có cơ sở ban hành chính sách, cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thí điểm đặt hàng, sau đó tổng kết rút kinh nghiệm và từng bước thực hiện chính sách đấu thầu cung cấp dịch vụ do nhà nước chi trả; khuyến khích các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia nhằm tạo môi trường công bằng cho các cơ sở đào tạo ngoài công lập. Giá đặt hàng đào tạo nghề là giá dịch vụ đào tạo tính đúng tính đủ chi phí đào tạo trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật.

(4) Chuyển giao các bộ chương trình; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo nghề ở các nước tiên tiến và thực hiện đào tạo thí điểm các nghề trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN và quốc tế.

Đây là con đường tiếp cận nhanh nhất trong đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao tại Việt Nam khi gia nhập cộng đồng ASEAN và TPP; các bộ chương trình theo từng nghề được chuyển giao phải được thực hiện đồng bộ, trọn gói.

Do chưa có đủ các điều kiện cả về cơ sở vật chất cũng như đội ngũ giáo viên và các điều kiện khác, để triển khai đại trà về đào tạo nghề chất lượng cao, cần thiết thí điểm việc thực hiện đào tạo theo chương trình chuyển giao của các nước tiên tiến trên thế giới nhằm học tập các khâu trong quá trình đào tạo để đảm bảo chất lượng học sinh sinh viên sau tốt nghiệp được tổ chức kiểm định có uy tín trên thế giới đánh giá và công nhận.

– Nghề chuyển giao: là nghề trong danh mục các nghề trọng điểm đã được quy hoạch

– Nội dung chuyển giao: phải thực hiện đồng bộ, trọn gói, bao gồm: Tiêu chuẩn kỹ năng nghề/ tiêu chuẩn năng lực; Chương trình đào tạo (trung cấp nghề và cao đẳng nghề); Giáo trình (theo chương trình đào tạo); Phương pháp xây dựng và đánh giá kết quả học tập; Danh mục máy móc, trang thiết bị.

– Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho giáo viên và cán bộ quản lý:

+ Bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề và nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên đào tạo nghề đạt tiêu chuẩn giáo viên của nước chuyển giao chương trình để dạy chương trình đã chuyển giao

+ Bồi dưỡng phương pháp xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, phương pháp xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình, đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên… (gọi chung là bồi dưỡng chuyển giao công nghệ đào tạo).

– Đào tạo thí điểm cho học sinh của các nghề chuyển giao: trên cơ sở chương trình chuyển giao, công nghệ đào tạo chuyển giao các cơ sở dạy nghề cần chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị, giáo viên để tổ chức đào tạo thí điểm. Việc tổ chức đào tạo từ khâu kế hoạch đến tổ chức thực hiện cần có sự giám sát và tư vấn của bên chuyển giao chương trình và kiểm định của các tổ chức kiểm định độc lập quốc tế. Nội dung này sẽ thực hiên theo cơ chế đặt hàng như trình bày ở trên.

Nội dung chủ yếu của giải pháp tài chính cho đào tạo nghề chất lượng cao

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?