Nguồn nhân lực nữ
Nếu con người là nguồn lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế- xã hội thì phụ nữ là bộ phận cơ bản cấu thành nguồn lực ấy. Tuy nhiên, với tư cách là hơn nửa dân số và chiếm phần đông trong lực lượng lao động thì phụ nữ luôn là vấn đề lớn đối với chiến lược phát triển của quốc gia.
Hiểu theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực nữ bao gồm bộ phận dân số nữ có khả năng tham gia vào quá trình lao động xã hội. Nói cách khác, nhân lực nữ được hiểu không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động nữ đã có và sẽ có mà còn bao gồm sức mạnh trí tuệ, thể chất, tinh thần của các cá nhân nữ trong một cộng đồng, quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực nữ với tư cách là lực lượng lao động của xã hội, bao gồm nhóm phụ nữ trong và trên tuổi lao động trở lên có khả năng lao động. Pháp luật Việt Nam quy định độ tuổi lao động đối với nữ trong khoảng nhỏ hơn của độ tuổi lao động nam (nữ từ đủ 15 đến hết 55 tuổi, nam từ đủ 15 đến hết 60 tuổi) nên mặc dù dân số nữ thường xuyên cao hơn (thường chiếm trên 51% dân số) song, lực lượng lao động nữ thường chiếm tỷ lệ nhỏ hơn (khoảng 49% lao động xã hội).
[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm: Tổng quan nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ[/message]Nghiên cứu về nguồn nhân lực nữ cần chú ý đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc quan niệm nguồn nhân lực nữ (rộng hay hẹp) chỉ mang tính chất tương đối, phụ thuộc vào phạm vi điều chỉnh của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Còn với tư cách là phần nửa dân số và lực lượng lao động xã hội, vừa là người trực tiếp tái sản xuất ra nguồn nhân lực cho đất nước, phụ nữ luôn là vấn đề lớn đối với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của bất kỳ quốc gia nào.
Thứ hai, nghiên cứu nguồn nhân lực nữ đòi hỏi phải có phương pháp tiếp cận đúng đắn. Phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu ở đây là xem xét mối quan hệ giữa cái chung (con người) và cái riêng (giới nam, giới nữ). Điều này là do chính đặc điểm của đối tượng nghiên cứu quy định.
Là con người, nam giới và phụ nữ giống nhau – đều vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội – nhưng họ có khác biệt về mặt tự nhiên – sinh học của cơ thể. Những đặc điểm sinh học về giới tính là bẩm sinh và không thể thay đổi được. Từ những đặc điểm sinh học, xét về mặt xã hội, phụ nữ đảm nhiệm chức năng xã hội khác nam giới, đó là chức năng trực tiếp tái sản xuất ra con người. Từ đó nảy sinh những khó khăn, thuận lợi khác nhau giữa giới nam và giới nữ trong học tập, làm việc, sinh sống. Phụ nữ thường gắn với con cái và gia đình. Họ có những nhu cầu cấp thiết hơn nam giới về những dịch vụ y tế dịch vụ gia đình, về điều kiện làm việc gần gia đình. Sự phân biệt về giới tính giữa nam và nữ có tính tự nhiên, bẩm sinh. Tuy nhiên, từ trong lịch sử kéo dài đến ngày nay đã tồn tại sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong đời sống xã hội và gia đình. Phụ nữ thường được coi là người hiển nhiên phải chịu trách nhiệm và thích hợp với việc chăm sóc con cái, gia đình. Những công việc này thường ít được nhìn nhận ở góc độ kinh tế. Sự đánh giá thấp của xã hội về khả năng, giá trị của lao động nữ trong lao động sản xuất đã giam hãm người phụ nữ ở địa vị thấp kém trong xã hội và gia đình với tất cả những bất công và thiệt thòi.
Tóm lại, việc nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực nữ không thể không nghiên cứu về hậu quả đem lại cho sự phát triển chung khi lực lượng phụ nữ bị kìm hãm, không phát huy được đầy đủ những tiềm năng cho việc cải tạo thiên nhiên, xã hội. Vấn đề đặt ra trước hết đối với việc phát triển nguồn nhân lực nữ là phải xác định được những nhân tố cơ bản tác động đến nguồn nhân lực nữ trong quá trình phát triển.
Nguồn nhân lực nữ
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT
Pingback: Đặc điểm nguồn nhân lực nữ Miền núi - Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ