Các nhân tố ảnh hưởng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

chất lượng dịch vụ

Mục lục

Các nhân tố ảnh hưởng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh nhằm mục tiêu xác định cơ sở cho những định hướng, biện pháp nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của một tỉnh.

Có nhiều cách phân loại nội dung các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh như theo phạm vi ảnh hưởng, đối tượng ảnh hưởng, tính chất ảnh hưởng và cấp độ ảnh hưởng. Dưới đây sẽ đề cập nội dung các nhân tố theo cách phân loại theo đối tượng ảnh hưởng, bao gồm nhóm nhân tố chủ quan và nhóm nhân tố khách quan.

1. Nhóm các nhân tố chủ quan

Nhân tố chủ quan là những nhân tố có thể tác động để cải thiện theo ý chí của mình. Năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lí và chất lượng đội ngũ công chức cấp tỉnh có ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc nhất tới chỉ số NLCT cấp tỉnh.

Năng lực của bộ máy quản lý là khả năng thực hiện chức năng quản lý và phục vụ của bộ máy hành chính. Trong đó, bao hàm khả năng huy động tổng hợp các yếu tố: 1- Hệ thống tổ chức các cơ quan; 2- Hệ thống thể chế, thủ tục hành chính (đảm bảo tính hợp lý, khoa học và đồng bộ); 3- đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức, trình độ, kỹ năng hành chính với cơ cấu, chức danh, tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu cụ thể của việc thực thi công vụ; 4- Tổng thể các điều kiện vật chất kỹ thuật cần và đã đảm bảo hoạt động công vụ hiệu quả. Năng lực hoạt động phụ thuộc vào chất lượng các yếu tố này.

[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm: Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh[/message]

Hiệu lực hoạt động thể hiện ở việc thực hiện đúng, có kết quả chức năng của bộ máy để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Ở khía cạnh thực tiễn, gắn với tính khả thi, hiệu lực thể hiện ở sự nghiêm túc, khẩn trương, triệt để của tổ chức, công dân trong việc thi hành chính sách, pháp luật của nhà nước trên phạm vi toàn xã hội. Nó phụ thuộc vào năng lực, chất lượng của nền hành chính (tổng hợp các yếu tố thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức).

Hiệu quả hoạt động biểu hiện là những kết quả đạt được của bộ máy trong sự tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực, trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội.

Trong những nội dung trên thì năng lực quyết định hiệu quả và hiệu lực hoạt động. Hiệu lực, hiệu quả là thước đo, tiêu chuẩn đánh giá năng lực. Các nguyên tắc hoạt động chủ yếu của bộ máy thể hiện ở các nội dung: phục vụ; công khai; phối hợp trong hoạt động quản lý theo vùng, ngành, lãnh thổ; hiệu lực, hiệu quả; hiện đại, khoa học; phân định rõ chức năng.

Giải quyết tốt các yếu tố cấu thành, hoàn thiện các điều kiện, môi trường để các cơ quan có năng lực hoạt động, thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng quản lý, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và đầu tư. Thuật ngữ “khách hàng là thượng đế” được nhiều nước sử dụng để đổi mới mối quan hệ giữa các cơ quan công quyền với công dân, DN [64].

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý đòi hỏi cải cách hành chính phải tiếp cận một cách hệ thống. Theo cách tiếp cận này thì có hai nhóm vấn đề liên quan: (1) cải cách những vấn đề gắn liền với chính nội bộ của cơ quan nhà nước (nền hành chính nhà nước); (2) cải cách những vấn đề gắn với những hoạt động mà các cơ quan nhà nước – hành chính nhà nước, tác động ra bên ngoài, ảnh hưởng đến hoạt động xã hội. Hai nhóm vấn đề này, công việc này về nguyên tắc cơ bản, gắn liền chặt chẽ với nhau. Bộ máy hành chính mạnh mới có thể thực hiện tốt được những công việc quản lý nhà nước do pháp luật quy định cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Đồng thời, đáp ứng được đòi hỏi của nhân dân, của xã hội và gia tăng mức độ hài lòng của công dân, của nhà đầu tư, nhà quản trị DN.

Tác động ra bên ngoài của các cơ quan hành chính nhà nước đối với xã hội, công dân không chỉ phụ thuộc vào thể chế, thủ tục hành chính mà còn phụ thuộc rất lớn vào năng lực, kiến thức, cách tư duy của những người làm việc trong các cơ quan ấy. Một bộ máy chỉ hoạt động hiệu quả khi bộ máy ấy có hệ thống nhân lực đảm bảo yêu cầu về chất lượng và số lượng. Nếu những người tham mưu, giúp nhà nước ấy thụ động, vô cảm, duy ý chí, không tư duy theo nguyên tắc sáng tạo, đổi mới, cải cách sẽ làm xấu đi mối quan hệ giữa công dân, nhà đầu tư với chính quyền, ảnh hưởng đến “mức độ hài lòng” của các nhà đầu tư và DN – những người tạo ra của cải cho xã hội.

2. Nhóm các nhân tố khách quan

Nhân tố khách quan là tập hợp những nhân tố mà chính quyền tỉnh không có khả năng hoặc rất ít khả năng tác động thay đổi được. Như theo Marion Temple thì các vùng có các điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, văn hoá,… khác nhau nên sức hấp dẫn đối với đầu tư từ bên ngoài khác nhau [10].

Trong phạm vi một tỉnh, những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến chỉ số năng lực cạnh tranh bao gồm:

 Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của mỗi địa phương

Các tỉnh khác nhau có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng và văn hoá, tập quán khác nhau. Có những tỉnh ưu đãi lớn về điều kiện tự nhiên có thể phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn như du lịch – dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp… ngược lại, có những tỉnh không được thiên nhiên ưu đãi, hàng năm phải đối mặt với thiên tai hạn hán,… Về văn hoá, có những tỉnh có trình độ dân trí cao, ngược lại có tỉnh chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, đời sống hết sức khó khăn,… Những vấn đề này có ảnh hưởng không nhỏ đến thu hút đầu tư, sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế chung của tỉnh [10]. Tuy nhiên, nếu biết phát huy lợi thế, tận dụng những thế mạnh sẵn có (điều mà địa phương nào cũng có), tăng cường liên kết, hợp tác với những địa phương khác thì vẫn có thể tạo ra sức hấp dẫn thu hút đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, chẳng hạn ở phạm vi quốc gia, Nhật Bản là một minh chứng điển hình trở thành một cường quốc kinh tế mà không có sự ưu đãi thiên nhiên.

  Tác động của nền KTTT định hướng XHCN và xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá quốc tế

KTTT là một nền kinh tế “mở” và càng mở hơn trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá quốc tế, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất, kích thích khả năng phát triển của mọi thành phần kinh tế. Nếu biết khai thác những yếu tố tích cực của nền KTTT thì sẽ phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cùng với sự điều chỉnh thống nhất của hệ thống chính sách, pháp luật của TW, có sự tương đồng về lợi thế, tiềm năng thì địa phương nào khai thác tối đa lợi thế về tự nhiên, kinh tế – xã hội và các thế mạnh của KTTT, địa phương đó sẽ thu hút được đầu tư nhiều hơn, sản xuất kinh doanh phát triển hơn và nền kinh tế sẽ tiến nhanh hơn. Mặt khác, nền KTTT định hướng XHCN cũng không tránh khỏi có những tác động tiêu cực đến các mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Bản thân mỗi công chức nhà nước cũng như chính quyền cấp tỉnh không nằm ngoài những tác động hai mặt của cơ chế thị trường, khi nó là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tham nhũng, vô cảm và nhiều tệ nạn khác, cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh [9].

  Tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ mà ảnh hưởng trực tiếp từ sự phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông

Những phương thức mới trong việc xử lý và trao đổi thông tin có thể cho phép chính quyền tỉnh làm việc tốt hơn (tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả quản lý) với chi phí ít hơn, mở ra những kênh tương tác mới giữa chính quyền và công dân, tăng cường tính công khai, minh bạch, nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm cho bộ máy chính quyền gần gũi hơn với người dân và DN. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông tạo ra nhiều lợi ích cho chính quyền và nhà đầu tư, DN, nhất là giảm rủi ro cũng như tăng cơ hội kinh doanh cho DN, nhà đầu tư và chắc chắn sẽ làm hài lòng các nhà đầu tư và DN hơn. Vì vậy, chính quyền cấp tỉnh cần khai thác ý nghĩa quan trọng của nhân tố này.

Các nhân tố trên đều có những tác động nhất định đến chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và xếp hạng năng lực cạnh tranh của một tỉnh. Để nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và cải thiện xếp hạng, mỗi tỉnh cần phải xác định rõ các nhân tố và mức độ ảnh hưởng, từ đó có những giải pháp tác động hiệu quả, hợp lý và kịp thời.

Để có định hướng và giải pháp thiết thực nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh một tỉnh thì ngoài việc xác định rõ những vấn đề lý luận liên quan đến cạnh tranh cấp tỉnh, cần thiết nghiên cứu kinh nghiệm các tỉnh đại diện cho cả ba miền, tỉnh có sự thăng tiến mạnh trong xếp hạng PCI những năm qua, tỉnh có điều kiện tương đồng, có xếp hạng cao, để có thêm bài học thực tiễn, bổ sung và làm phong phú hơn cho nghiên cứu của đề tài.

Các nhân tố ảnh hưởng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

One thought on “Các nhân tố ảnh hưởng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

  1. Pingback: Nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa | dvvietthueluanvan

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?