Như đã đề cập thì chi ngân sách nhà nước gắn liền với chủ thể là Nhà nước, có phạm vi rộng, có liên quan đến hầu hết các ngành, lĩnh vực, mọi cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Tuy nhiên, tùy theo góc độ xem xét thì nội dung chi NSNN có thể được tiếp cận theo hướng khác nhau.
Chi NSNN bao gồm các hạng mục sau:
– Chi đầu tư phát triển: Bao gồm các khoản chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước, chi hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn liên doanh, liên kết, chi bổ sung dự trữ Nhà nước.
– Chi sự nghiệp kinh tế;
– Chi y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học;
– Chi cho sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao;
– Chi về xã hội;
– Chi quản lý nhà nước, đảng, đoàn thể;
– Chi an ninh quốc phòng;
– Chi khác (chi viện trợ, cho vay, trả nợ…).
Chi ngân sách nhà nước gồm chi thường xuyên và chi không thường xuyên
– Nhóm chi thường xuyên. Gồm những khoản chi bảo đảm hoạt động bình thường cho các đối tượng và mức chi tương đối ổn định trong một thời gian dài. Hầu hết các khoản chi này phát sinh đều đặn, lặp đi lặp lại giữa các khoảng thời gian trong năm và giữa các năm, mức chi cho các đối tượng này chủ yếu dựa trên chế độ, định mức chi do cấp có thẩm quyền ban hành, mang tính chất thanh toán trực tiếp và không để lại hình thái vật chất – đồng nghĩa với tiêu dùng trực tiếp.
Các lĩnh vực chi thường xuyên bao gồm: Chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, khoa học công nghệ, các hoạt động đảng, đoàn thể, …
– Chi không thường xuyên: Là các khoản chi không được lặp lại đều đặn, mà chỉ phát sinh một hoặc một số lần, mức chi cũng không ổn định, chủ yếu phụ thuộc vào tính chất, qui mô từng công việc cụ thể.
Các lĩnh vực chi không thường xuyên bao gồm: 1/Nhóm chi đầu tư phát triển. Gồm các khoản chi làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và góp phần làm tăng trưởng kinh tế; 2/Nhóm chi trả nợ và viện trợ; 3/Chi dự trữ: chi bổ sung quĩ dự trữ Nhà nước, quĩ dự trữ tài chính.
Theo quan điểm kinh tế học công cộng thì Nhà nước là chủ thể cung cấp dịch vụ cho xã hội, để làm được điều này thì Nhà nước phải sử dụng NSNN. Từ đó, chi NSNN gắn với những hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước cung cấp cho xã hội, bao gồm chi đầu tư để cung cấp dịch vụ công cộng vô hình (như quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường…). Đây là những dịch vụ công thuần túy mang tính không loại trừ người sử dụng, có nghĩa là hầu như không có việc cạnh tranh trong sử dụng và không thể loại trừ ai đó không được sử dụng. Người hưởng thụ dịch vụ này thường không cảm nhận trực tiếp mình được hưởng dịch vụ đó, mà phải thông qua nhận thức, tư duy.
➯ Xem thêm: Khái niệm chi ngân sách nhà nước
Chi đầu tư cung cấp dịch vụ công cộng hữu hình như giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, giao thông, giải trí… Chi đầu tư cung cấp một số hàng hóa, dịch vụ cá nhân thông qua chi chi hỗ trợ doanh nghiệp trong một số lĩnh vực không hấp dẫn (vì lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận).
Chi NSNN bao gồm:
– Các khoản chi thường niên: Là những khoản chi đảm bảo cho bộ máy Nhà nước hoạt động bình thường và để thực hiện những nhiệm vụ mang tính thường nhật. Các khoản chi này được thực hiện gọn trong từng năm NSNN, bao gồm chủ yếu các khoản chi thường xuyên và những khoản chi khác thực hiện trọn vẹn trong từng năm NSNN.
– Các khoản chi cho chương trình, dự án: Thông thường chi cho các chương trình, dự án thường diễn ra trong nhiều năm NSNN. Mỗi năm NSNN chỉ là một phần chi của các chương trình, dự án thực hiện trong năm đó.
Chi ngân sách nhà nước bao gồm
Chi tích lũy: Là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế, góp phần tăng trưởng kinh tế) ;
Chi tiêu dùng: Là khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai (chi cho các hoạt động sự nghiệp, chi quản lý hành chính Nhà nước, chi quốc phòng an ninh, chi tiêu dùng khác).
Bảo hiểm xã hội tự nguyện ra đời từ cuối thế kỷ XIX, dưới dạng các quỹ tương tế.
– Đối tượng tham gia là nông dân, thợ thủ công, ngư dân.
– Các chế độ BHXH tự nguyện bao gồm: Hưu trí, ốm đau, sinh đẻ, thương tật, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp đối với những người làm công trong nông nghiệp, trợ cấp gia đình.
– Quỹ BHXH tự nguyện được hình thành trên cơ sở đóng góp của người tham gia bảo hiểm và được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết.
– Tổ chức triển khai: Do 2 cấp quản lý triển khai là cấp trung ương, cấp tỉnh hoặc liên tỉnh. Ở cấp tỉnh hoặc liên tỉnh thành lập Hội đồng quản lý. Trong Hội đồng này có đại diện của người tham gia. Người tham gia Hội đồng quản lý do tất cả những người tham gia bầu ra. Quỹ BHXH tự nguyện của cấp này được sử dụng chủ yếu để chi trả trợ cấp trên địa bàn. Còn ở cấp trung ương thành lập Hội đồng quản trị. Trong Hội đồng quản trị này có đại diện của Hội đồng quản lý cấp tỉnh và liên tỉnh. Quỹ BHXH ở cấp trung ương có trách nhiệm điều phối chung trong toàn quốc. Việc tổ chức chi trả được thực hiện thông qua hệ thống Bưu chính Pháp dưới 2 hình thức chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng tại các bưu cục hoặc vào bất kỳ ngân hàng nào mà người thụ hưởng có tài khoản. Những người không có tài khoản được nhận trợ cấp bằng tiền mặt trực tiếp tại các bưu điện. Một số đối tượng đặc biệt (cao tuổi, tàn tật…) được bưu điện mang trợ cấp đến tận nhà.
Phần Lan là một nước phát triển và nông dân chỉ chiếm 7% dân số. Thu nhập của nông dân khá đa dạng và thu nhập từ sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm 50% trong tổng thu nhập. Đây là điều kiện rất lý tưởng để người nông dân có thể tham gia BHXH tự nguyện.
– Các chế độ BHXH tự nguyện bao gồm: Bảo hiểm dài hạn (hưu trí, tàn tật) và bảo hiểm ngắn hạn (ốm đau, tai nạn, thất nghiệp).
– Quỹ BHXH tự nguyện: Được hình thành do sự đóng góp của nông dân. Tỷ lệ đóng góp này là khá cao (trên 20% thu nhập cá nhân). Tuy nhiên, 80% trong mức đóng góp này là do Nhà nước hỗ trợ.
– Tổ chức triển khai: Do 2 cơ quan tổ chức triển khai, đó là tổ chức BHXH quốc gia (KELA) và tổ chức BHXH nông dân (MELA). MELA là một tổ chức của Nhà nước và là một thành viên của ISSA. Đối với các chế độ dài hạn do KELA quản lý. Còn các chế độ ngắn hạn do MELA quản lý. Điều kiện để được hưởng trợ cấp là khi người nông dân đủ 65 tuổi (cả nam và nữ) được hưởng trợ cấp hưu. Mức hưởng phụ thuộc vào tỷ lệ đóng góp và thời gian đóng góp, nhưng tối đa bằng 60% mức thu nhập theo tính toán. Nếu nghỉ hưu sớm hơn (ở độ tuổi từ 64 trở xuống) thì mức trợ cấp bị giảm đi tương ứng.
Ngoài trợ cấp hưu, người nông dân còn được hưởng trợ cấp ốm đau, tai nạn hay thất nghiệp. Mọi nông dân từ 18 tuổi trở lên bắt buộc phải tham gia vào hệ thống bảo hiểm tai nạn cho nông dân. Những nông dân từ 14-17 tuổi có thể tham gia tự nguyện. Ngoài ra, những người trên 65 tuổi cũng được tham gia tự nguyện cho chế độ bảo hiểm tai nạn. Mức trợ cấp được thực hiện như đối với khu vực làm công ăn lương do Nhà nước quy định.
– Tổ chức triển khai: Được chia thành 2 tiểu hệ thống là BHXH tự nguyện đối với lao động tự do và BHXH tự nguyện đối với nông dân tự do.
– Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đối với lao động tự do bao gồm: Người lao động độc lập không có quan hệ lao động, vợ hoặc chồng thất nghiệp của lao động trong khu vực nông nghiệp, những người nội trợ, những người gốc Thổ có quốc tịch nước ngoài, vợ hoặc chồng trong khu vực nông nghiệp, thân nhân của những người Thổ định cư ở nước ngoài do điều kiện phải sống phụ thuộc và không có công việc ổn định.
– Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đối với nông dân tự do bao gồm: Những người lao động tự do không thuộc đối tượng tham gia của BHXH bắt buộc.
– Các chế độ bảo hiểm được áp dụng bao gồm: Mất sức lao động, tuổi già, tử tuất (chế độ tử tuất chỉ áp dụng đối với lao động tự do, không áp dụng đối với nông dân).
– Quỹ BHXH tự nguyện: Cơ quan BHXH đề ra 12 mức đóng góp để người tham gia bảo hiểm có thể lựa chọn đóng theo 1 trong 12 mức đó.
– Điều kiện để được hưởng: Đối với chế độ mất sức lao động là phải suy giảm 2/3 khả năng lao động và phải đóng góp BHXH tự nguyện tối thiểu 5 năm. Đối với bảo hiểm tuổi già, tuổi nghỉ hưu đối với nam là 55 và nữ là 50 và phải có thời gian đóng góp vào quỹ BHXH tự nguyện tối thiểu là 25 năm. Những người có thời gian đóng góp từ 15 năm đến dưới 25 năm thì hưởng bảo hiểm tuổi già một phần (gọi là hưu sớm), được hưởng mức trợ cấp hàng tháng thấp hơn so với những người đủ điều kiện. Đối với những người có dưới 15 năm đóng bảo hiểm thì được hưởng trợ cấp hưu một lần.
– Mức hưởng trợ cấp bảo hiểm tuổi già (mức tối thiểu): Được áp dụng tương tự như mức trợ cấp bảo hiểm tuổi già của các hệ thống bảo hiểm khác (ở Thổ Nhĩ Kỳ có nhiều hệ thống BHXH khác nhau cho các nhóm đối tượng khác nhau).
Ngoài việc thực hiện BHXH bắt buộc, Trung Quốc thực hiện BHXH tự nguyện thông qua 2 chương trình: Chương trình BHHT bổ sung và BHXH tự nguyện đối với nông dân.
a) Chươngtrình BHHT bổ sung: Được thực hiện từ năm 1991, đó là một hình thức bảo hiểm được bổ sung trong chế độ BHXH bắt buộc, nhằm đảm bảo cho người về hưu có mức trợ cấp cao hơn.
Năm 1995, Bộ Lao động và BHXH Trung Quốc đã ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình hưu trí bổ sung. Trong đó quy định rõ quy trình và điều kiện để các doanh nghiệp tham gia đóng quỹ. Theo đó chương trình BHHT bổ sung dựa trên các nguyên tắc cơ bản, đó là: Phải có tài khoản cá nhân, quản lý quỹ theo định hướng kinh tế thị trường, mức đóng góp hoàn toàn tự nguyện theo sự thỏa thuận của người sử dụng lao động và tổ chức Công đoàn của doanh nghiệp.
Chính phủ tổ chức thực hiện chương trình BHHT bổ sung và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp và người lao động tham gia. Trên cơ sở chính sách chung của quốc gia, mỗi địa phương cũng đã xây dựng chương trình riêng phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội của mình.
b) Chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với nông dân:
Bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân được thực hiện thí điểm từ năm 1986 và đến năm 1992 được thực hiện đại trà ở gần 200 địa phương. Chương trình này tại Nam Kinh được thực hiện như sau:
Nam Kinh thực hiện chương trình BHXH tự nguyện nông thôn (Nông bảo) từ năm 1992. Chương trình này như một chương trình tiết kiệm cá nhân, có đối tượng tham gia là những lao động làm việc trong các HTX ở khu vực nông nghiệp.
– Mức đóng hay tỷ lệ đóng: Do người lao động tự chọn. Các HTX ở nông thôn Nam Kinh cũng khuyến khích người lao động tham gia và đóng góp tương ứng của HTX.
– Phương thức đóng: Việc đóng góp của người lao động là tự nguyện, không hạn chếtuổi tác, có thể đóng nhiều lần và cũng có thể đóng một lần, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của người lao động.
– Mức hưởng và phương thức hưởng: Người lao động được nhận trợ cấp khi 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ. Mức hưởng hàng tháng được xác định trên cơ sở lấy tổng số tiền đóng góp của HTX và người lao động trong tài khoản cá nhân chia cho 216 tháng (18 năm). Người lao động cũng có thể nhận một lần toàn bộ số tiền có trong tài khoản nếu mức nhận hàng tháng quá thấp.
Trong quá trình đóng quỹ, người lao động có thể nhận lại số tiền đóng góp của mình trong các trường hợp như: Phải di chuyển chỗ ở sang tỉnh khác hoặc có lý do chính đáng nhưng chỉ được nhận lại số tiền do bản thân đóng góp còn phần của HTX không được nhận lại.
Nam Kinh thực hiện chính sách khuyến khích thông qua lãi suất tài khoản cá nhân được tính cao hơn so với lãi suất tiết kiệm. Người lao động chỉ phải trừ chi phí quản lý 3% trong năm đầu đóng quỹ, từ năm thứ 2 không phải trừ chi phí nào khác. Trong trường hợp thiếu chi phí quản lý sẽ được bổ sung từ ngân sách địa phương.
Bộ máy quản lý chương trình Nông bảo được chia thành 4 cấp (tỉnh, huyện, xã, làng). Trong đó, cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng chương trình, ban hành cơ chế, chính sách chung của địa phương. Cấp huyện có trách nhiệm cụ thể hóa cơ chế, chính sách do tỉnh ban hành. Cấp cơ sở (thị trấn) thực hiện việc đăng ký tham gia quỹ Nông bảo đối với các HTX và người lao động. Còn cấp làng thực hiện công tác thu tiền đóng của HTX và người lao động. Giữa các cấp có mối quan hệ rất chặt chẽ và thường xuyên có sự trao đổi, phối hợp với nhau trong công việc. Vì vậy, đã góp phần thúc đẩy hoạt động của chương trình được đồng bộ.
Qua chương trình BHXH tự nguyện cho nông dân ở Trung Quốc cho thấy, người nông dân với sự tham gia của các HTX đã có sự bảo đảm nhất định trong cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc tham gia tự nguyện của người dân còn rất nhỏ, mức trợ cấp chưa đảm bảo cuộc sống. Trong khi đó, phần lớn nông dân Trung Quốc thu nhập còn thấp và không ổn định. Nhưng việc thực hiện BHXH cho nông dân là chính sách quan trọng của Trung Quốc, thể hiện sự quan tâm của Chính phủ đối với nông dân, làm thay đổi được quan niệm truyền thống người già sống dựa vào con trai của Trung Quốc.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện chính thức từ năm 1990. Chính phủ cũng cho phép các Hiệp hội tương trợ bảo hiểm – là những tổ chức phi Chính phủ, được tổ chức thực hiện BHXH tự nguyện cho nông dân và những thành viên trong gia đình họ. Như vậy, hệ thống BHXH tự nguyện độc lập với hệ thống BHXH bắt buộc. Tuy nhiên, khi thiết kế các chế độ luôn luôn có 2 hệ thống BHXH bắt buộc và tự nguyện để mọi người tùy từng đối tượng cụ thể, có thể hoặc bắt buộc phải tham gia hoặc tự nguyện tham gia.
– Đối tượng tham gia bao gồm: Những người không đáp ứng được các điều kiện đối với BHXH bắt buộc, đó là những người làm việc trong các trang trại nhỏ, những nông dân cá thể, các thành viên trong gia đình họ.
– Các chế độ bảo hiểm gồm: Chế độ ngắn hạn (ốm đau, thai sản, tai nạn, trợ cấp gia đình). Các chế độ bảo hiểm dài hạn (tuổi già, tàn tật, tử tuất).
Ngoài các chế độ trên (trợ cấp bằng tiền), người tham gia bảo hiểm còn được trợ cấp bằng hiện vật, như thuốc men, các phương tiện trợ giúp, đồ mặc và hiện vật cho trẻ sơ sinh, nhà ở (nhà dưỡng lão) đối với tuổi già.
Các trợ cấp ngắn hạn có thể được trả hoàn toàn hoặc từng phần, tùy theo thỏa thuận bảo hiểm. Đây là điều khác so với BHXH bắt buộc, các trợ cấp trên phải trả hoàn toàn cho người tham gia bảo hiểm.
– Quỹ BHXH tự nguyện: Đối với chế độ ngắn hạn, mức đóng góp do Chủ tịch quỹ BHXH xác định theo quý. Đối với chế độ dài hạn, mức đóng góp dựa trên mức chi thực tế cho các chế độ này của quý trước đó, không có quy định cứng.
Tuy nhiên, quỹ BHXH tự nguyện cũng chủ yếu do Nhà nước tài trợ, phần đóng góp của người tham gia bảo hiểm chỉ đảm bảo được 10% chi trả các chế độ và các hoạt động. Do đó, phần đóng góp này chủ yếu mang tính trách nhiệm của người tham gia BHXH tự nguyện.
– Nguồn hình thành và quản lý quỹ BHXH: Do chủ trang trại và nông dân cùng đóng góp và đóng theo quý. Quản lý quỹ BHXH tự nguyện do quỹ BHXH nông nghiệp (KRUS) đảm nhiệm. Quỹ này có một cơ quan trung ương và 49 chi nhánh vùng và khoảng 200 chi nhánh địa phương trực tiếp chi nhánh vùng.
Ngoài quỹ KRUS, còn có các quỹ được thực hiện bởi các Hiệp hội bảo hiểm tương hỗ, được gọi là bảo hiểm “theo nguyện vọng” để bổ sung cho các loại bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện nêu trên. Đây là loại bảo hiểm tự nguyện dựa trên hợp đồng giữa 2 bên là cơ quan bảo hiểm và người được bảo hiểm. Hình thức này chủ yếu áp dụng đối với bảo hiểm tuổi già. Mức đóng góp của loại hình bảo hiểm này phụ thuộc vào thỏa thuận bảo hiểm (tương tự như BHNT của Việt Nam), phụ thuộc vào mức hưởng được ấn định và phụ thuộc vào thời hạn chi trả bảo hiểm, vào độ tuổi và giới tính của người tham gia bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm loại này được gửi vào ngân hàng đầu tư để sinh lời.
Người dân nông thôn chiếm đại đa số trong dân cư ở Indonesia và đa số trong số họ có thu nhập ở mức tối thiểu, thậm chí dưới mức tối thiểu. Vì vậy, BHXH cho nông dân là một chương trình không thể thiếu trong phát triển nông nghiệp và nông thôn của Chính phủ Indonesia.
– Các chế độ bao gồm: Chăm sóc y tế, tử tuất, mất sức lao động, hưu trí.
+ Chăm sóc y tế bao gồm cả chăm sóc trong các trường hợp ốm đau, thai sản và sinh con. Đối tượng hưởng chăm sóc y tế không chỉ người lao động mà cả vợ/ chồng và con cái còn phụ thuộc. Tuy nhiên, chế độ thai sản chỉ áp dụng cho những nữ nông dân tham gia BHXH.
+ Trợ cấp tử tuất nhằm bù đắp cho sự mất mát các trợ giúp mà người góa hoặc trẻ em phải chịu đựng do cái chết của người trụ cột trong gia đình và được thanh toán một lần.
+ Trợ cấp mất sức lao động được dành cho những trường hợp bị mất khả năng làm việc trong một mức độ quy định và khi mất khả năng lao động là vĩnh viễn hoặc kéo dài sau khi điều trị. Mức đền bù quy định được chi trả một lần.
+ Trợ cấp hưu trí được áp dụng cho những người đã đạt đến độ tuổi nhất định (thông thường là 55 tuổi cho cả nam và nữ) và không còn khả năng làm việc để kiếm sống. Bảo hiểm hưu trí được thực hiện dưới dạng một hệ thống tiết kiệm. Khi đến tuổi nghỉ hưu, người nông dân mới được rút tiền ra (gồm cả phần lãi).
– Quỹ BHXH tự nguyện: Mức đóng góp được thực hiện đồng nhất đối với mọi người tham gia BHXH tự nguyện, không phụ thuộc vào thu nhập cá nhân của họ. Người nông dân có thể lựa chọn hình thức đóng góp một lần hoặc nhiều lần trong năm, tùy thuộc vào thời vụ và thu nhập của họ. Đối với những người làm công trong nông nghiệp, trừ chế độ hưu trí, các chế độ còn lại do chủ sử dụng lao động phải đóng góp cho họ.
– Chi trả các chế độ: Được thực hiện thông qua các quầy của các HTX hoặc thông qua thư ký HTX hoặc các trưởng thôn, trưởng làng.
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm thực hiện chính sách BHXH tự nguyện ở một số nước trên thế giới, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Thứ nhất, về sự cần thiết: Không một nước nào cùng một lúc ban hành một chính sách BHXH duy nhất để áp dụng chung cho mọi đối tượng lao động. Sự ra đời, phát triển và từng bước mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của từng nước trong từng thời kỳ. Có thể nói, BHXH tự nguyện là hình thức quá độ của BHXH bắt buộc mà các nước thực hiện, trong những điều kiện nhất định, với những nhóm đối tượng nhất định, nhằm đảm bảo cho mọi người dân đều được tham gia một loại hình BHXH. Do đó, trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, với mức thu nhập khác nhau, người lao động chiếm phần lớn là lao động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và lao động PCT, có cuộc sống bấp bênh, không ổn định. Đặc biệt, nước ta đang trong thời kỳ “dân số vàng”. Trong khi đó, BHXH bắt buộc mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ trong tổng số LLLĐ (chiếm khoảng 20%). Vì vậy, việc ban hành nhiều hình thức BHXH tự nguyện theo đặc điểm từng loại đối tượng lao động là phù hợp với kinh nghiệm quốc tế.
Thứ hai, về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện: Rất nhiều nước trên thế giới đã thực hiện BHXH tự nguyện, đối tượng tham gia loại hình bảo hiểm này là những người nông dân, lao động tự tạo việc làm, những người chưa tham gia loại hình BHXH bắt buộc. Một số nước, cũng cho phép các đối tượng đã tham gia BHXH bắt buộc, được tham gia loại hình BHXH tự nguyện đó là BHHT bổ sung, để tăng khả năng an toàn trong cuộc sống. Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, cần phải được thực hiện thận trọng, từng bước. Cần phải dự báo số lượng người tham gia để điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
Tùy theo từng nước, nhưng đa số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là mọi đối tượng kể cả đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Thông thường, ở các nước áp dụng đối với người lao động trong khu vực nông nghiệp và PCT.
Đối với những đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện áp dụng đối với những người có mức thu nhập vượt mức tiền lương trần tính tỷ lệ thu BHXH và những người có nguyện vọng muốn tham gia BHHT bổ sung.
Thứ ba, về các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện: Tùy theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội của các nước trong từng thời kỳ, mà có thể thực hiện một hay một số các chế độ BHXH. Các chế độ được đa số các nước thực hiện theo thứ tự ưu tiên là bảo hiểm tuổi già (chế độ hưu trí), chế độ tử tuất, chế độ mất sức lao động. Có một số ít nước thực hiện cả chế độ chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động, trợ cấp gia đình. Việc mở rộng các chế độ BHXH tự nguyện cũng phải được xem xét, tính toán một cách thận trọng và từng bước.
Tất cả các nước đều không áp dụng cả 9 chế độ theo Công ước 102 của ILO đối với BHXH tự nguyện, mà chỉ thực hiện một trong số các chế độ đó, đa số chế độ được áp dụng nhiều nhất là 2 chế độ dài hạn: Chế độ hưu trí và tử tuất.
Thứ tư, về tài chính bảo hiểm xã hội tự nguyện: Mức đóng và phương thức đóng, do đặc thù của nhóm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, đa số có mức thu nhập thấp và không ổn định, đặc biệt là lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, thu nhập thường gắn với mùa vụ, nên các nước thực hiện mức đóng, phương thức đóng bảo hiểm rất mềm dẻo và linh hoạt, không giới hạn, không khống chế tối đa để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Mức đóng thường áp dụng mức đồng nhất cho từng nơi, tùy theo điều kiện kinh tế – xã hội của nơi đó, gắn với mức sống chung của dân cư và có sự điều chỉnh theo từng giai đoạn. Có một số nước quy định nhiều mức đóng khác nhau để người tham gia có thể lựa chọn phù hợp với điều kiện thu nhập của bản thân.
Nguồn hình thành quỹ: Vì là BHXH tự nguyện, nên việc đóng góp chủ yếu do người tham gia bảo hiểm đóng góp, nhưng ở một số nước, nhất là ở các nước phát triển, Nhà nước hoặc HTX cũng có sự hỗ trợ cho quỹ bảo hiểm. Đây là điều rất quan trọng để duy trì và phát triển hoạt động của hệ thống BHXH tự nguyện, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các nhóm lao động khác nhau trong xã hội và đảm bảo mục tiêu ASXH chung.
Mức hưởng và phương thức chi trả: Mức hưởng BHXH tự nguyện thường không gắn với thu nhập mà dựa vào mức đóng, khả năng thanh toán của quỹ BHXH tự nguyện, nhưng không thấp hơn mức sống tối thiểu của dân cư. Để được hưởng bảo hiểm tuổi già, thì điều kiện về tuổi đời và thời gian đóng góp làm căn cứ để xem xét. Tuổi nghỉ hưu của các nước cũng tương tự như BHXH bắt buộc hoặc thấp hơn không đáng kể, nhưng không cao hơn. Ở một số nước áp dụng 2 hình thức xác định mức hưởng, bao gồm:
Trợ cấp xác định: Mức trợ cấp được xác định theo số năm đóng góp, tỷ lệ đóng góp.
Mức đóng góp được xác định theo hình thức tài khoản cá nhân: Trợ cấp xác định theo số tiền đóng góp và hiệu quả tăng trưởng, không quy định trước tỷ lệ hưởng. Số tiền đóng góp của người lao động, lãi thu được từ đầu tư được thông báo hàng năm, đồng thời thông báo mức trợ cấp sẽ được nhận theo số tiền đóng góp tương ứng. Người lao động có thể xem xét quá trình đầu tư số tiền của mình. Mức trợ cấp dạng này không cố định, phụ thuộc vào số tiền đóng góp của người tham gia và hiệu quả đầu tư. Người lao động có thể lựa chọn trợ cấp một lần hoặc hàng tháng và có quyền thừa kế quyền BHXH của mình cho người khác.
Việc chi trả bảo hiểm: Rất linh hoạt, đơn giản, thuận tiện, có thể thông qua tài khoản cá nhân, thông qua hệ thống bưu điện hoặc thông qua đại diện HTX, đại diện thôn xóm.
Quản lý và sử dụng quỹ: Quỹ BHXH tự nguyện thường được quản lý riêng, trên cơ sở hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với quỹ BHXH tự nguyện. Nhà nước có cơ quan bảo hiểm quỹ trợ cấp để bảo hiểm cho quỹ BHXH tự nguyện trong trường hợp quỹ có nguy cơ bị đổ vỡ.
Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ: Hầu hết các nước đều quy định những danh mục mà quỹ BHXH tự nguyện được phép đầu tư. Các lĩnh vực được phép đầu tư là những lĩnh vực có mức độ rủi ro thấp, chủ yếu là tham gia vào thị trường chứng khoán, mua trái phiếu của Nhà nước, cho ngân hàng thương mại vay. Khi tiến hành các biện pháp đầu tư tài chính, Hội đồng quản trị BHXH là tổ chức quyết định.
Thứ năm, về tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội tự nguyện: Ở một số nước do tổ chức BHXH chuyên ngành của Nhà nước quản lý. Đứng đầu các tổ chức này là Hội đồng quản lý có đại diện của các bên tham gia BHXH. Song một số nước lại do các công ty BHXH tự nguyện, nhưng các công ty này chịu sự quản lý của cơ quan BHXH (cơ quan quản lý BHXH bắt buộc).
Mặc dù thực hiện riêng, nhưng các nước có thể thực hiện việc “liên thông” giữa BHXH tự nguyện và bắt buộc để đảm bảo quyền lợi liên tục cho người tham gia khi di chuyển trong thị trường lao động.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện không phải quốc gia nào trên thế giới cũng tiến hành. Tuy nhiên, ở hầu hết các quốc gia có hình thức bảo hiểm xã hội này đều được thực hiện theo 2 loại hình sau:
– Bảo hiểm xã hội tự nguyện áp dụng cho tất cả mọi người lao động không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc (như nông dân, lao động nông thôn, lao động trong các hộ gia đình, các nông trại có quy mô nhỏ, những người tự tạo việc làm…) và đa phần được tiến hành cho các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn (hưu trí, tàn tật và tử tuất).
– Bảo hiểm xã hội tự nguyện áp dụng như là một hình thức BHXH bổ sung cho BHXH bắt buộc, mà các quốc gia đang thực hiện là bảo hiểm hưu trí (BHHT) bổ sung.
Bảo hiểm hưu trí bổ sung thực chất là loại hình BHXH tự nguyện được thực hiện trên cơ sở nền tảng của BHXH bắt buộc. Đây là hình thức phổ biến hiện nay, đặc biệt ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Hiện nay trên thế giới đã có hơn 80 quốc gia đang thực hiện BHHT bổ sung (ở Việt Nam đang triển khai thí điểm). Thực hiện theo hình thức này là những người tham gia BHXH bắt buộc có mức thu nhập bình quân (được tính toán) theo quy định có thể tham BHHT bổ sung để có mức trợ cấp cao hơn khi về hưu.
Xem thêm: Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện
Mặc dù ở mỗi quốc gia khác nhau vẫn quy định về nội dung, phương thức và tổ chức thực hiện BHHT bổ sung cũng khác nhau song đều có đặc điểm chung là: Đối tượng tham gia BHHT bổ sung là những người lao động và doanh nghiệp đăng ký tham gia BHXH bắt buộc, tự nguyện đóng góp phần thu nhập của mình vào quỹ BHXH theo chế độ tự nguyện. Cũng có những quốc gia quy định mức thu nhập của những người tham gia BHHT bổ sung để đảm bảo duy trì việc đóng góp như ở Đức trước đây quy định chỉ những người có thu nhập trên 600 mác/tháng hay trên 7.200 mác/năm (thời điểm năm 1977) mới được quyền tham gia BHHT bổ sung, mức đóng bằng 10% số thu nhập vượt quá mức thu nhập trên. Tuy nhiên, cũng có những quốc gia không khống chế mức thu nhập này (chẳng hạn như BHHT bổ sung của Úc). Việc không quy định mức thu nhập bình quân của người lao động để có quyền tham gia BHHT bổ sung là dựa trên quan điểm cho rằng người lao động có thể hạn chế chi tiêu hiện tại để tích lũy cho về già hoặc mặc dù thu nhập thấp hơn nhưng người lao động vẫn có khả năng tham gia BHHT bổ sung do họ được sự trợ giúp nào đó (chẳng hạn của gia đình, người thân…). Chính việc không khống chế mức thu nhập này càng khuyến khích người lao động có khả năng tham gia vào BHHT bổ sung.
Do dựa trên nền tảng là bảo hiểm xã hội bắt buộc nên độ tuổi quy định được nhận trợ cấp hưu trí bổ sung cũng trùng với độ tuổi nhận trợ cấp hưu trí theo quy định trong BHXH bắt buộc. Chính vì vậy, khi nghỉ hưu bên cạnh trợ cấp hưu trí theo BHXH bắt buộc, người tham gia BHHT bổ sung còn được nhận một khoản trợ cấp hưu trí bổ sung tự nguyện.
Việc tham gia BHHT bổ sung là do người lao động hoàn toàn tự nguyện đóng góp một phần thu nhập của mình. Tham gia vào BHHT bổ sung, mức đóng góp lại được chia cho các bên là người lao động và người sử dụng lao động, song tỷ lệ đóng góp của các bên cũng khác nhau ở mỗi quốc gia, thậm chí không có tỷ lệ đóng cố định chung mà tùy thuộc vào sự thỏa thuận khi tham gia của người lao động và người sử dụng lao động.
Theo cơ chế tự nguyện, nên trong điều kiện hưởng của loại hình bảo hiểm này không quy định thời gian tối thiểu tham gia BHXH như khi tham gia BHXH bắt buộc. Song cũng như BHXH bắt buộc, mức trợ cấp hưu trí bổ sung tự nguyện phụ thuộc vào thời gian tham gia đóng góp BHHT bổ sung và thu nhập trung bình hàng tháng trên mức thu nhập quy định được quyền tham gia BHHT bổ sung tự nguyện. Chính vì vậy, BHHT bổ sung đã góp phần tạo cho chính sách hưu trí của các quốc gia được đa tầng, đa trụ cột, tạo sự bền vững và giảm bớt sự phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước và nâng cao mức sống cho người lao động khi về hưu.
Nguyên tắc bảo hiểm xã hội tự nguyện là những định hướng, quy định về phương thức hoạt động của cả hệ thống BHXH nhằm đảm bảo cho các hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện diễn ra bình thường, đạt được những mục tiêu đề ra. Theo nghĩa đó, BHXH tự nguyện phải được xây dựng trên nền tảng các nguyên tắc cơ bản sau:
Trong bảo hiểm xã hội tự nguyện, việc tham gia hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện của người lao động, không mang tính bắt buộc. Người lao động có quyền tự quyết định tham gia hay không tham gia, được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với nhu cầu và thu nhập của mình. Vì đây là hình thức tự nguyện, nên để thu hút nhiều người lao động tham gia, nhằm đảm bảo ASXH thì Nhà nước cần phải thiết kế một chính sách thông thoáng, mềm dẻo, linh hoạt phù hợp với thực tiễn và tổ chức triển khai có hiệu quả chính sách BHXH tự nguyện. Thậm chí phải hỗ trợ đóng phí cho những người lao động thuộc đối tượng thu nhập thấp để họ có cơ hội tham gia. Nếu đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc này, thì chính sách BHXH tự nguyện mới thực sự đi vào cuộc sống và công tác tổ chức triển khai mới diễn ra dễ dàng, thuận lợi và có hiệu quả.
Có thể nói, mọi hoạt động trong đời sống xã hội nếu thực hiện công bằng và bình đẳng sẽ hạn chế được những mâu thuẫn nội tại giữa con người với con người và đây chính là động lực tạo ra sự đoàn kết và khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của con người cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trong hệ thống BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng, cần phải tuân thủ theo nguyên tắc này, vì nó liên quan tới quyền và nghĩa vụ của người lao động và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động và gia đình họ. Nguyên tắc này phải được thực hiện ngay trong quá trình xây dựng và tổ chức triển khai chính sách BHXH tự nguyện. Cụ thể, không có sự phân biệt giữa 2 loại hình BHXH bắt buộc và tự nguyện, hoặc trong cùng BHXH tự nguyện cũng không được phân biệt về giới tính, ngành nghề, khu vực, thu nhập…Mức đóng và mức hưởng trợ cấp BHXH tự nguyện thường có mối quan hệ tương ứng với nhau, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít, nếu chỉ thực hiện với chế độ hưu trí và tử tuất. Nếu thực hiện các chế độ khác thì BHXH tự nguyện vẫn có tính không hoàn trả nhằm chia sẻ rủi ro, gắn kết cộng đồng và lợi ích giữa các bên tham gia.
Ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện thường triển khai sau BHXH bắt buộc. Do vậy, về chính sách cũng như bộ máy thực hiện không thể đồng bộ và hoàn thiện bằng loại hình BHXH bắt buộc. Hơn nữa, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu là nông dân, lao động tự do…Những người này có đặc điểm là công việc bấp bênh, không ổn định, trình độ học vấn, tay nghề chuyên môn kỹ thuật và thu nhập thấp… Vì vậy, để những người lao động này nhanh chóng tiếp cận với chính sách BHXH tự nguyện thì quá trình tổ chức thực hiện phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi cho người tham gia. Cụ thể, phải đơn giản hóa về thủ tục đăng ký tham gia và hưởng các chế độ; phương thức thu, chi trả phải linh hoạt và thuận tiện.
Xem thêm: Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện
Bảo hiểm xã hội ra đời nhằm ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm ASXH. Hoạt động BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính chính trị, xã hội, vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Do vậy, cho dù BHXH hoạt động theo hình thức bắt buộc hay tự nguyện thì đều có sự bảo trợ của Nhà nước. Mục đích bảo trợ của Nhà nước là để cho hoạt động BHXH tự nguyện được an toàn, lành mạnh, hiệu quả và đạt được mục tiêu đề ra. Hơn nữa, giúp cho người tham gia an tâm, tin tưởng. Không chỉ có bảo trợ, Nhà nước còn có thể hỗ trợ phí BHXH tự nguyện cho người tham gia, đặc biệt trong giai đoạn đầu triển khai. Cách làm này sẽ trực tiếp khuyến khích và tạo sức lan tỏa giữa những lao động trong xã hội nhằm nhanh chóng mở rộng diện bao phủ của BHXH nói chung.
Phát triển chính sách BHXH tự nguyện là thể hiện sự công bằng, văn minh và tiến bộ xã hội. Để chính sách này thực sự đi vào cuộc sống, thì việc thiết kế chính sách phải theo hướng “mở và linh hoạt”, tổ chức triển khai phải phù hợp với thực tiễn. Từ đó mới mở rộng được diện bao phủ BHXH tự nguyện. Tuy nhiên, số lượng chế độ được áp dụng trong mỗi thời kỳ phải phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, thu nhập của dân cư, trình độ quản lý… và đáp ứng được nhu cầu thực tế của người tham gia. Khi phát triển đối tượng tham gia, không nên mở rộng tràn lan, mà phải có lộ trình và phân loại lao động theo các nhóm có mức thu nhập khác nhau (cao, trung bình, thấp). Đối với nhóm lao động có mức thu nhập từ trung bình trở lên thì khả năng tham gia BHXH tự nguyện sẽ rất cao và việc mở rộng đối tượng tham gia ở nhóm này sẽ dễ dàng hơn. Nhưng nhóm lao động có mức thu nhập thấp thì khó có khả khả năng tham gia, để nhóm này có cơ hội được tiếp cận với chính sách BHXH tự nguyện, cần thiết phải có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước trong việc đóng phí BHXH.
Do sự tác động đa dạng đến các khía cạnh kinh tế, văn hóa và đạo đức xã hội nên tham nhũng luôn được xem là chủ đề trọng tâm trong các lĩnh vực khoa học chính trị và kinh tế học. Những nghiên cứu học thuật về nguyên nhân và hậu của tham nhũng (trong khu vực công) được thực hiện từ một vài thập kỷ trước đây. Chẳng hạn như, luận thuyết của Scott (1972) về tham nhũng chính trị đã có những ảnh sâu xa đến tận sau này vì trong đó nêu lên nhiều hình thái khác nhau của tham nhũng như : đó là thói tham nhũng quan liêu, cơ chế xin – cho và gia đình trị, và chi phối nhà nước.
Tham nhũng quan liêu hoặc tham nhũng hành chính công đề cập đến hành vi cố ý tạo ra những méo mó trong thực thi pháp luật, quy chế và quy định hiện hành nhằm đem lại lợi ích cho các cá nhân trong và ngoài chính phủ bằng các phương pháp không hợp pháp và thiếu minh bạch (Worldbank, 2000). Ví dụ như một cá nhân hối lội cán bộ thu thuế để giảm trách nhiệm nộp thuế.
Cơ chế xin – cho và gia đình trị đề cập đến sự thiên vị mà những cá nhân nắm quyền lực dành cho những nhóm đối tượng thuộc một phạm vi hẹp để đổi lấy sự hỗ trợ chính trị. Đối xử thiên vị với một số cá nhân, trao hợp đồng từ một nguồn duy nhất,… là những ví dụ cho hình thái quan liêu (TN) này.
Chi phối nhà nước đề cập đến các hành động của cá nhân, nhóm người hoặc các công ty trong khối nhà nước cũng như tư nhân nhằm gây ảnh hưởng đến việc xây dựng luật, quy định, quy chế, nghị định và các chính sách khác của chính phủ nhằm làm lợi cho bản thân (WorldBank, 2000).
Những năm thập niên 1990, tham nhũng trở thành chủ đề thu hút một lượng lớn các quan tâm của các nhà nghiên cứu và giới học giả. Hiện nay, tham nhũng cũng là một hiện tượng đang được xem xét rộng rãi ở hầu hết các quốc gia bất kể là phát triển hay đang phát triển, nhỏ hay lớn, theo định hướng thị trường hay hình thức khác. Chính vì lý do này mà đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề tham nhũng, đặc biệt các nghiên cứu về các yếu tố tác động đến tham nhũng. Những nghiên cứu này bao gồm Billger & Goel (2009), Del Monte & Papagni (2007), Glaeser & Saks (2006), Goel & Nelson (1998), La Porta & ctg (1999), Saha & ctg (2009), Treisman (2000)… Tuy nhiên, khái niệm về quan liêu (TN) rất đa dạng, vẫn chưa có sự đồng nhất và chưa thật sự rõ ràng.
Trong từ điển của Oxford (2000), quan liêu (TN) được mô tả như: [1] hành vi gian lận hoặc phi pháp, đặc biệt là những người làm trong chính quyền; [2] hành động làm thay đổi từ chuẩn đạo đức thành thiếu đạo đức của hành vi. Vì vậy, tham nhũng bao gồm ba yếu tố quan trọng là đạo đức, hành vi và quyền lực. Gould (1991) cho rằng định nghĩa tham nhũng như là vấn đề đạo đức, nghĩa là tham nhũng là hiện tượng trái đạo đức và trái với luân thường đạo lý mà bao gồm tập hợp các sự lệch lạc đạo đức so với các chuẩn đạo đức của xã hội.
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) định nghĩa “tham nhũng là việc lạm dụng quyền lực được giao phó để nhằm tư lợi”. Tương tự, theo nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (The World Bank Group) “tham nhũng là lạm dụng công quyền nhằm tư lợi”. Việc lạm quyền ở đây được hiểu theo nghĩa rất rộng. Khu vực công được cho là bị lạm quyền khi một đại diện nhận, gạ gẫm hoặc sách nhiễu hối lộ. Nó cũng bị lạm dụng khi các đại diện tư nhân chủ động đưa hối lộ để phá vỡ các chính sách công và quy trình công vì các lợi thế cạnh tranh cũng như lợi nhuận. Khu vực công cũng có thể bị lạm dụng vì lợi ích cá nhân ngay cả khi không có hối lộ xảy ra, thông qua sự bảo trợ và gia đình trị, các hành vi trộm cắp tài sản nhà nước, hay sự chuyển hướng của các khoản thu của nhà nước.
Tham nhũng cũng được hiểu là việc sử dụng những đặc quyền của khu vực công để mưu lợi cá nhân, nó được xem là vấn đề nghiêm trọng ở các nước đang phát triển (Beekman & ctg, 2013; Jain, 2001; Stiglitz, 2002). Một số hoạt động phi pháp như gian lận, rửa tiền, buôn bán ma túy, hoạt động chợ đen không cấu thành nên tội tham nhũng do chúng không hoàn toàn đòi hỏi các đặc quyền của khu vực công. Tuy nhiên, các cá nhân thực hiện các hoạt động nói trên thường liên hệ với các quan chức và chính trị gia. Mặt khác, các hoạt động này thường không thể phát triển mạnh nếu không có yếu tố tham nhũng (Jain, 2001).
Như vậy, có thể hiểu tham nhũng là một hành động trục lợi cá nhân đến từ việc lạm dụng các quyền lợi, đặc quyền của khu vực công. Trong bài nghiên cứu của mình, Amundsen (2000) cho rằng tham nhũng tồn tại ở các dạng : hối lộ, biển thủ, gian lận và tống tiền.
Hối lộ được định nghĩa là một khoản chi trả (dạng tiền hoặc vật chất) được đưa hay nhận trong một quan hệ tham nhũng. Về bản chất, việc chi hay nhận hối lộ chính là tham nhũng. Một khoản hối lộ có thể được hiểu là một số tiền cố định, số phần trăm theo hợp đồng hay một khoản tiền tồn tại ở bất kỳ một dạng nào được trả cho một quan chức đại diện cho nhà nước để thực hiện hợp đồng hay phân phối lợi ích tới các doanh nghiệp, cá nhân. Hối lộ cũng có thể được xem là một loại thuế không chính thống khi các quan chức chính quyền đòi hỏi các khoản chi trả hoặc quà tặng từ các đội tượng khác. Các thuật ngữ khác như lại quả, tiền trà nước, tiền đút lót, tiền bôi trơn đều dùng để chỉ về hội lộ dưới góc nhìn của công chúng. Các khoản tiền này cần thiết hoặc được yêu cầu để việc thực hiện các công việc hành chính nhanh chóng, thuận lợi hoặc được ưu tiên hơn. Bằng các loại chi phí bôi trơn này, doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh có thể mua được ưu tiên chính trị và né tránh các gánh nặng về thuế và các quy định, mua các thị trường được bảo hộ hoặc độc quyền, các giấy phép…
Biển thủ được hiểu là việc đánh cắp các nguồn lực công bởi các quan chức chính quyền, là một dạng của sử dụng sai các quỹ tiền tệ công. Biển thủ được thực hiện khi một quan chức chính phủ đánh cắp từ các định chế công mà họ đang làm việc và từ các nguồn lực họ quản lý nhân danh nhà nước và chính phủ. Tuy nhiên, các nhân viên không trung thành của các doanh nghiệp tư nhân cũng có thể biển thủ tiền và nguồn lực từ người chủ của họ. Biển thủ là một dạng của tham nhũng bằng việc lợi dụng quyền lực.
Gian lận là một tội phạm kinh tế liên quan đến các hành động lừa gạt, bịp bợm, lừa đảo. Đây là thuật ngữ luật học rộng hơn và phổ biến hơn, trong đó bao hàm cả hối lộ và biển thủ. Gian lận xảy ra khi các đại diện của chính quyền tham gia vào mạng lưới giao dịch bất hợp pháp và tống tiền khi các tổ chức tội phạm kinh tế giả mạo, buôn lậu khi có sự phê chuẩn và tham gia của chính quyền.
Tống tiền là việc tiền hoặc các nguồn lực khác bị bòn rút bằng cách ép buộc, bạo lực hoặc đe dọa. Tiền bảo kê có thể bị bòn rút theo cách tạo ra môi trường không an toàn cho các cá nhân, người kinh doanh để đổi lấy sự yên bình. Chỉ những người trả đủ tiền thì mới không bị tiếp tục quấy nhiễu. Tống tiền căn bản cũng là một dạng của tham nhũng nhưng số tiền này được bòn rút một cách khá bạo lực. Sự đổi chác lấy lợi ích giữa các bên bị mất cân bằng nghiêm trọng. Tham nhũng dưới hình thức tống tiền thường được hiểu là một dạng bòn rút từ bên dưới. Ví dụ, khi một tổ chức mafia ở Nga hoặc ở Ý có khả năng gây ảnh hưởng đến các quan chức chính quyền và toàn bộ cơ quan nhà nước thông qua việc đe dọa hoặc ám sát có chủ đích. Các tổ chức này sẽ nhận được các ưu tiên và đặc quyền kinh tế và tự do trong thuế, quy định và các vụ truy tố pháp luật. Ngoài ra, tham nhũng dạng này có thể tồn tại dưới hình thức từ trên xuống khi tổ chính quyền là tổ chức mafia lớn nhất. Ví dụ, khi chính quyền, đặc biệt là các dịch vụ bảo vệ của họ, là các nhóm bán quân sự tống tiền từ các cá nhân và tổ chức kinh doanh cho việc không bị quấy nhiễu. Các dạng quấy nhiễu có thể là đe dọa đánh thuế nặng, trì hoãn việc cấp giấy phép, các cuộc điều tra liên ngành dưới nhiều hình thức.
Tham nhũng có thể phân loại thành : tham nhũng vặt và tham nhũng lớn. Tham nhũng vặt có thể xảy ra ở cấp độ đường phố, xảy ra hằng ngày. Tham nhũng dạng này xuất hiện khi người dân tiếp xúc với các quan chức thấp hoặc trung bình ở những nơi như trường học, bệnh viện, cơ quan công an, cơ quan hành chính cấp cơ sở,… Quy mô giao tiền giao dịch thường là nhỏ và chủ yếu ảnh hưởng đến cá nhân (June & ctg, 2008). Tham nhũng lớn thường xảy ra ở cấp độ chính quyền cao – nơi có khả năng bóp méo chính sách hay thậm chí bóp méo chức năng chính quyền, tạo điều kiện cho người lãnh đạo hưởng lợi trên tổn thất của hàng hóa công. Tham nhũng lớn đôi khi tương đồng với tham nhũng chính trị (Rohwer, 2009).
Nhiều nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa tham nhũng và tăng trưởng kinh tế, trong đó có Shleifer & Vishny (1993) cho rằng “tham nhũng là việc bán tài sản của chính phủ nhằm tư lợi”.
Tóm lại, khái niệm về tham nhũng là đa dạng, tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu và cách tiếp cận mà nó có thể được hiểu theo các ý nghĩa khác nhau. Trong nghiên cứu này, tác giả mong muốn xem xét vai trò của chất lượng thể chế đối với hoạt động tham nhũng của giới công chức, đồng thời xem xét sự ảnh hưởng của tham nhũng này đối với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Vì vậy, thuật ngữ tham nhũng trong nghiên cứu này là đề cập đến tham nhũng hành chính công của giới công chức, họ lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thay đổi quy định, quy trình của pháp luật vì mục tiêu tư lợi và làm tổn hại đến môi trường kinh doanh cạnh tranh.
Nếu cứ phát triển các KCN như hiện nay sẽ khó đảm bảo được các mục tiêu trong dài hạn, nghĩa là khó đảm bảo tính bền vững. Từ thực tế đó, phát triển bền vững các khu công nghiệp được đề cập khá nhiều trong các tài liệu, hội nghị, nghị quyết. Tuy vậy, dưới góc độ học thuật, nên hiểu về phát triển bền vững các khu công nghiệp như thế nào vẫn còn là vấn đề tranh luận.
Phát triển bền vững các KCN được đặt ra trong khuôn khổ quan niệm về phát triển bền vững một quốc gia có chú ý đến những yếu tố đặc thù của các KCN. Theo đó, có thể hiểu phát triển bên vững KCN như sau: “Phát triển bền vững các KCN là việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định, có hiệu quả ngày càng cao của bản thân KCN, bên cạnh đó phát triển hài hòa với các mặt xã hội và bảo vệ môi trường”.
Như vậy, phát triển bền vững các KCN phải được xem xét trên hai góc độ: tính bền vững, hiệu quả của KCN và tính tác động lan tỏa .
Thứ nhất, bảo đảm duy trì tính bền vững và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ của bản thân KCN.
– Bảo đảm sự phát triển ổn định các chỉ số hiệu quả kinh tế cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của KCN như: quy mô và tốc độ gia tăng giá trị sản lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh, kim ngạch xuất khẩu, năng suất lao động, trình độ công nghệ sản xuất được ứng dụng, thu nhập bình quân và các đóng góp với quốc gia và địa phư ng như các khoản thuế, phí các loại. Bên cạnh đó, sự đóng góp an sinh xã hội của các doanh nghiệp công nghiệp cũng được coi là một phần của sự phát triển bền vững.
– Duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh của các KCN. Khả năng cạnh tranh nói lên tính chất vượt trội trong quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác có cùng tiêu chí so sánh. Đối thủ cạnh tranh của các KCN vùng thuộc các tỉnh trong khu vực hoặc trên cả nước. Năng lực cạnh tranh của KCN thể hiện ở sự vượt trội trong các tiêu chí c bản: môi trường pháp lý và hành chính của địa phư ng sở tại; c sở hạ tầng công nghiệp, chi phí sản xuất, trình độ công nghệ sản xuất, khả năng chiếm lĩnh thị trường; bảo đảm nguồn nhân lực cả về số và chất lượng cho các doanh nghiệp công nghiệp.
Thứ hai, phát triển bền vững các KCN phải tạo ra được những tác động mang tính lan toả tích cực của KCN đến các hoạt động kinh tế – xã hội của các ngành, địa phư ng, khu vực có KCN hoạt động.
Tác động lan tỏa của KCN cần đảm bảo việc không gây tác hại hoặc mất đi tính bền vững đối với sự phát triển của các ngành khác, lãnh thổ bên ngoài ranh giới của KCN. Điều này thể hiện trên các khía cạnh cụ thể:
– Hoạt động của KCN trên địa bàn địa phư ng tạo ra sự chuyển dịch tích cực trong c cấu ngành kinh tế địa phư ng theo xu hướng tăng mạnh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa và tập trung cho xuất khẩu.
– Hoạt động của KCN có tác động tích cực trong việc phát triển c sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội cho khu vực có KCN. Để phát triển ngành công nghiệp mà cốt lõi là các KCN, cần phải đảm bảo hệ thống hạ tầng ở mức độ nhất định. Ngoài ra, hạ tầng dịch vụ cần phải được thúc đẩy để hỗ trợ công nghiệp phát triển. Tóm lại, phát triển công nghiệp sẽ kéo theo phát triển hạ tầng dịch vụ cùng với các yếu tố hạ tầng xã hội.
– Hoạt động của KCN có tác động tích cực trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân địa phư ng thông qua việc giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề xã hội, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Người lao động làm việc trong nông nghiệp vốn thu nhập thấp, khi chuyển sang ngành công nghiệp sẽ có thu nhập cao h n. Lao động làm việc trong công nghiệp không bị ảnh hưởng nhiều bởi tính mùa vụ và thời tiết như trong nông nghiệp. Do vậy, người lao động không bị tác động nhiều bởi các tệ nạn xã hội do thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định gây ra.
– Sự phát triển các khu công nghiệp phải đảm bảo hạn chế ô nhiễm và cải thiện môi trường sinh thái. Tiêu chuẩn về môi trường là một trong các chỉ tiêu bắt buộc đối với các KCN. Vấn đề ảnh hưởng của môi trường trong các KCN cần được xem xét ở phạm vi rộng, bên cạnh chất thải rắn, nước thải công nghiệp còn bao gồm cả khói, bụi công nghiệp và tiếng ồn do quá trình sản xuất gây ra. Thực tế này đặt ra yêu cầu trong thiết kế quy hoạch các KCN và vùng công nghiệp luôn phải đảm bảo yêu cầu là không có dân cư, không gần khu vực dân cư nhằm tránh những tác động bất lợi trực tiếp từ môi trường đến đời sống người dân.
Các Khu công nghiệp có thể được phân loại dựa trên những căn cứ khác nhau, tùy theo mục đích của việc phân loại.
– Căn cứ theo chủ thể đầu tư, các Khu công nghiệp có thể được chia thành hai loại: [26, tr.18]
Thứ nhất, các Khu công nghiệp do Nhà nước đầu tư. Đó là những KCN do chính quyền các địa phư ng thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách địa phư ng nhằm thúc đẩy phát triển SXCN. Loại KCN này thường được xây dựng ở những địa phư ng có điều kiện kinh tế và phát triển công nghiệp khó khăn.
Ở vùng Đồng bằng sông Hồng, các KCN do Nhà nước đầu tư được xây dựng ở các địa phư ng như: Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, những địa phư ng này được coi là ít có lợi thế so sánh so với các địa phư ng khác trong vùng. Khi Nhà nước đầu tư KCN, thường thành lập ra một công ty hạ tầng trực thuộc Ban quản lý các KCN của tỉnh để đầu tư và điều hành KCN. Ngoài việc đầu tư xây dựng, vận hành KCN, các chủ đầu tư trực tiếp tham gia cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp thứ cấp, ví dụ: các dịch vụ hành chính, xử lý môi trường, cung cấp thông tin, giới thiệu chính sách kinh tế, xúc tiến thư ng mại, giới thiệu việc làm, tuyển dụng lao động,… Tuy nhiên, các dịch vụ này chỉ mang tính căn bản, trong khi để KCN hoạt động tốt, hiệu quả và bền vững thì phải cần đến nhiều loại dịch vụ khác nữa, mà bản thân các Ban quản lý KCN không đáp ứng được.
Thứ hai, các KCN do khu vực tư nhân đầu tư. Những KCN do các chủ đầu tư tư nhân đảm nhận quá trình đầu tư xây dựng và vận hành KCN. Các KCN loại này hiện là phổ biến ở những địa phư ng có kinh tế phát triển, ví dụ như: Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dư ng.
Trong trường hợp này, ngoài các hạng mục chính, các chủ đầu tư có thể cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ như: tư vấn đầu tư, tư vấn xây dựng, kho vận, môi trường. Đối với các dịch vụ khác, chủ đầu tư có vai trò cầu nối trung gian để các tổ chức cung cấp dịch vụ vào trong KCN cung cấp.
– Căn cứ theo tính chất chuyên môn hóa, có thể phân biệt các Khu công nghiệp tổng hợp và các KCN chuyên môn hóa. Các KCN chuyên môn hóa thường tập trung sản xuất sản phẩm thuộc một hoặc một nhóm ngành cụ thể. Ví dụ, KCN dệt may ở Hưng Yên, KCN đóng tàu ở Ninh Bình, KCN điện tử ở Yên Phong (Bắc Ninh). Các KCN loại này thường dựa trên c sở lợi thế của vùng và lợi thế của chủ đầu tư và quy hoạch, cũng như chính sách kêu gọi đầu tư của địa phư ng.
– Căn cứ vào quy mô, các KCN được chia thành KCN lớn và KCN nhỏ. Tùy điều kiện từng vùng, từng quốc gia mà mức độ lớn nhỏ có thể khác nhau. Ví dụ, ở Việt Nam, những KCN có diện tích lớn h n 300 ha được coi là các KCN lớn và KCN nhỏ thường có diện tích nhỏ hơn 300 ha.
Về bản chất, các khu công nghiệp (KCN) là những vùng lãnh thổ mà công nghiệp tập trung ở mức cao. Chúng là sản phẩm của sự tập trung hóa theo lãnh thổ của công nghiệp [27, tr.13]. Sự hình thành và phát triển của các KCN tùy thuộc c bản vào nhu cầu và năng lực phát triển công nghiệp của quốc gia cũng như của từng địa phư ng. Quy mô cũng như c cấu của mỗi KCN cụ thể phụ thuộc nhiều yếu tố, kể cả các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội và chính bản thân sự phát triển của ngành công nghiệp.
Các KCN được hình thành theo những cách thức khác nhau. Ở các nước công nghiệp phát triển, các KCN phần lớn đã được hình thành một cách tự phát. Chúng là những vùng lãnh thổ có mật độ công nghiệp tập trung cao, thường ra đời trên c sở các lợi thế của từng vùng và được mở rộng dần tùy thuộc vào bản thân những lợi thế này cũng như sự cạnh tranh giữa các vùng, và vào nhu cầu về mặt bằng của các doanh nghiệp. Trong lịch sử, các KCN loại này thường không có ranh giới địa lý rõ ràng, thường bắt đầu từ một vùng “lõi” mà được mở rộng dần nhờ có các doanh nghiệp mới được đầu tư xây dựng ở địa bàn lân cận. Sự phát triển này dẫn tới sự ra đời của các “vùng công nghiệp” trên c sở có sự hình thành, mở rộng và phát triển của nhiều KCN được hình thành ở những địa bàn lân cận.
Ở Việt Nam, việc xây dựng và phát triển các KCN theo nghĩa hiện nay đã chính thức được đặt ra và triển khai từ khoảng 25 năm nay [16]. Đây là một chủ trư ng đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Theo đó, các KCN (và các khu chế xuất) là những địa điểm được xây dựng với các điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư có thể đầu tư xây dựng các c sở sản xuất công nghiệp một cách thuận lợi. Nó bắt nguồn từ nhu cầu khắc phục tình trạng mất cân đối và khó khăn trong việc đảm bảo các điều kiện về c sở vật chất – kỹ thuật phục vụ sản xuất.
Về mặt lý luận, hiện có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm và việc xây dựng các KCN, do có khác biệt về mục tiêu và điều kiện nghiên cứu.
Theo các chuyên gia của tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) trong chư ng trình hỗ trợ kỹ thuật xây dựng Luật KCN cho Việt Nam, “KCN là khu vực có hàng rào ngăn cách với bên ngoài, chịu sự quản lý riêng, tập trung tất cả các doanh nghiệp hoạt động SXCN theo bất kỳ cơ chế nào, miễn là phù hợp với các quy định và quy hoạch về vị trí ngành nghề. Trong KCN có thể có một phần đất làm khu chế xuất, chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và dịch vụ để sản xuất hàng xuất khẩu”.
Nhiều chuyên gia nghiên cứu ủng hộ quan điểm này, cho rằng: “KCN là khu vực chuyên SXCN và cung cấp dịch vụ dành cho SXCN, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được thành lập và tổ chức hoạt động theo cơ chế chính sách của Chính phủ” [26].
Luật Đầu tư của Việt Nam năm 2005 định nghĩa: “Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho SXCN, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ” [41].
Thứ nhất, KCN là khu vực khép kín, tách biệt với khu dân cư và có diện tích xác định.
Thứ hai, KCN ra đời và đi vào hoạt động trước khi các doanh nghiệp công nghiệp đầu tư xây dựng nhà xưởng để sản xuất. Như vậy, nhiều KCN sẽ có một thời gian dài tồn tại mà chưa có một doanh nghiệp công nghiệp nào hoạt động.
Thứ ba, việc thành lập KCN do Chính phủ quyết định, bất kể chủ đầu tư xây dựng c sở hạ tầng KCN là Nhà nước hay doanh nghiệp.
Như vậy, khái niệm KCN đang được sử dụng là những khái niệm được xây dựng theo nghĩa hẹp, nhưng lại phù hợp với mục tiêu kinh doanh của các chủ đầu tư hạ tầng công nghiệp. Trong thực tế, hầu hết các chủ đầu tư hạ tầng KCN chỉ tập trung quan tâm tới phần đất công nghiệp cho thuê, mà ít quan tâm đến diện tích đất xây dựng các công trình phúc lợi và hệ thống dịch vụ hỗ trợ kinh doanh đi kèm. Xuất phát từ thực tế này, khi quy hoạch xây dựng các KCN, tính đồng bộ của nó ít được quan tâm, nghĩa là các công trình phụ trợ và dịch vụ đi kèm ít được chú ý. Do đó, mức độ hấp dẫn của nhiều KCN hiện đã giảm sút, ảnh hưởng bất lợi đến kinh doanh và sự phát triển bền vững của chúng.
Từ những phân tích trên, trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay, KCN cần được hiểu là khu vực chuyên SXCN và cung cấp các dịch vụ phục vụ cho SXCN, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập và tổ chức hoạt động theo cơ chế chính sách của Nhà nước. Theo cách tiếp cận này, có thể nhìn nhận KCN có những đặc trưng c bản sau:
– Thứ nhất, KCN là khu vực có thể có hoặc không có tường rào bao quanh nhưng có ranh giới địa lý hoàn toàn xác định;
– Thứ hai, trong KCN cần có một số c sở cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, có thể được bố trí thành khu vực SXCN và khu vực dịch vụ riêng biệt. Khu vực dịch vụ có thể bao gồm nhà ở cho người lao động, các dịch vụ hỗ trợ phục vụ cho các doanh nghiệp trong KCN, các công trình hạ tầng xã hội và dịch vụ phục vụ cho người lao động làm việc trong KCN. Ở Việt Nam hiện nay, các KCN hội tụ đủ những đặc trưng này đã c bản chứng minh được tính hiệu quả của nó.
– Thứ ba, KCN do các c quan chính quyền Nhà nước quyết định thành lập theo sự phân cấp rõ ràng theo các tiêu chí hợp lý (tức là có thể do chính quyền cấp trung ư ng hoặc chính quyền cấp địa phư ng ra quyết định thành lập). Tính đến thời điểm hiện tại ở Việt Nam, các KCN hầu hết do Chính phủ quyết định thành lập.
Tiếp cận và nhận thức về KCN theo quan điểm này sẽ khắc phục được những sai lầm và thiếu sót trong việc quy hoạch và phát triển KCN. Việc xây dựng và vận hành các KCN có thể đảm bảo được mục tiêu phát triển bền vững do có hệ thống dịch vụ đồng bộ đi kèm. Theo đó, quy hoạch phát triển KCN phải gắn liền với quy hoạch phát triển hạ tầng xã hội và hệ thống dịch vụ hỗ trợ. Chủ đầu tư hạ tầng KCN không nhất thiết phải đầu tư cho cả hai khâu, nhưng tính đồng bộ của chúng phải được đảm bảo ngay trong thiết kế quy hoạch và thực hiện triển khai.
Trên thực tế, một số KCN đã được thành lập và hiện đang hoạt động hầu như không theo mô hình này và khó có thể bổ sung các dịch vụ bởi đã được quy hoạch cứng từ trước. Do vậy, chỉ có thể xây dựng, phát triển các công trình hạ tầng xã hội và dịch vụ xung quanh KCN này để phục vụ sự phát triển của nó. Đối với những KCN có quy mô nhỏ, vị trí gần các vùng kinh tế có trình độ phát triển; có thể không nhất thiết xây dựng thêm các công trình hỗ trợ, mà có thể tận dụng sự có sẵn tại địa phư ng và xem xét, bổ sung thêm một số hạng mục dịch vụ như nhà ở và các dịch vụ khác phục vụ cho người lao động làm việc trong các KCN.
Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh tế tại một nước (nhà đầu tư) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác. Lợi ích lâu dài thể hiện ở chỗ sự tồn tại một mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư với doanh nghiệp được đầu tư. Nhà đầu tư có được ảnh hưởng quan trọng và hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp bao gồm việc thực hiện những giao dịch từ đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp theo giữa hai thực thể và các doanh nghiệp được liên kết một cách chặt chẽ. Như vậy, FDI là đầu tư vốn nước ngoài có gắn liền với việc quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh đối với dự án, doanh nghiệp tiếp nhận phần vốn đó và có thời hạn lâu dài.
Theo Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một khoản đầu tư bao gồm mối quan hệ trong dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ nước ngoài) trong một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trực tiếp, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài).
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc đầu tư vốn được thực hiện ở các doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài nhằm thu về những lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi nhà đầu tư nước ngoài mở rộng một mối quan hệ lâu dài với một doanh nghiệp của
nước tiếp nhận đầu tư và có cổ phần trong doanh nghiệp đủ để duy trì một mức ảnh hưởng quan trọng trong việc quản lý doanh nghiệp này.
Theo Ngân hàng Thế Giới (WB), Đầu tư trực tiếp nước ngoài là dòng đầu tư vốn chủ sở hữu đầu tư trực tiếp trong nền kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: vốn cổ phần, lợi nhuận giữ lại và nguồn vốn khác. Đầu tư trực tiếp là một loại đầu tư xuyên biên giới có liên quan đến một chủ thể trong một nền kinh tế có mức độ kiểm soát hay ảnh hưởng đáng kể đến quản lý của một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác. Ví dụ, đầu tư ròng (thuần) vào một quốc gia để nhà đầu tư có được quyền quản lý lâu dài (nếu nắm được ít nhất 10% cổ phần thường) trong một doanh nghiệp hoạt động trong một nền kinh tế khác (đối với chủ đầu tư).
Theo Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ban hành vào ngày 26/11/2014: Luật này không nêu khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng trong Điều 3 có đề cập đến Đầu tư kinh doanh và nhà Đầu tư nước ngoài như sau: Đầu tư kinh doanh “là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; Đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; Đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án Đầu tư” và Nhà Đầu tư nước ngoài “là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”.
Từ những liệt kê trên, có thể nhận thấy rằng định nghĩa về dòng vốn đầu tư nước ngoài bao gồm 2 đặc điểm sau: (1) Đầu tư từ quốc gia này đến quốc gia khác, (2) Chủ thể của quốc gia đầu tư có ảnh hưởng lớn đến chủ thể của quốc gia được đầu tư. Chính vì vậy, các định nghĩa trên hầu như không có mâu thuẫn. Vì vậy, để đồng nhất trong diễn đạt, luận án sẽ sử dụng định nghĩa của UNCTAD, bởi nó có nhiều sự tương đồng với những điều Luật Đầu tư được nêu ra. Đồng thời, trong hầu hết tất cả các nghiên cứu trước đây, cả trong và ngoài nước, thì UNCTAD luôn là nguồn tài liệu tham khảo và số liệu thống kê để xem xét. Chính vì thế, định nghĩa từ UNCTAD sẽ tạo ra sự thống nhất với các chuỗi nghiên cứu trước đây về FDI và tăng trưởng kinh tế.