Bản chất và tác động của lạm phát
Định nghĩa: Theo Samuelson & Nordhaus (1989), lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá chung
Theo World Bank thì lạm phát, được đo lường bởi chỉ số giá tiêu dùng, thể hiện sự thay đổi (%) hàng năm về chi phí mà người tiêu dùng bình thường phải trả cho một rỗ hàng hóa và dịch vụ (có thể cố định hoặc thay đổi) ở những khoảng thời gian nhất định (thường là theo năm). Trong khi đó, theo IMF, lạm phát đo lường mức độ đắt đỏ hơn của một rỗ các hàng hóa và dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
Có thể thấy là khái niệm của World Bank về lạm phát khá gần với khái niệm của IMF. Trong thực tế, các số liệu thống kê về lạm phát cho một quốc gia của World Bank và IMF là như nhau. Trong nghiên cứu này, lạm phát và các số liệu nghiên cứu được dựa theo World Bank hoặc IMF.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): thước đo lạm phát được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá tiêu dùng, còn gọi là CPI. CPI đo lường chi phí mua một rỗ hàng hóa chuẩn tại những thời điểm khác nhau.
Hệ số giảm phát GDP: là tỷ số của GDP danh nghĩa trên GDP thực tế, có thể hiểu như giá của tất cả các thành phần của GDP (tiêu dùng, đầu tư, mua sắm của chính phủ và xuất khẩu ròng).
Ba khuynh hướng của lạm phát
Lạm phát vừa phải: lạm phát vừa phải được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và có thể dự đoán trước được (tỷ lệ lạm phát hàng năm một chữ số).
Lạm phát phi mã: lạm phát trong phạm vi hai chữ số hoặc ba chữ số.
Siêu lạm phát: giá cả tăng hàng triệu hay thậm chí hàng tỷ phần trăm một năm.
Tác động kinh tế của lạm phát
Tác động đến phân phối thu nhập và của cải: xuất phát từ sự khác nhau giữa các loại tài sản có và tài sản nợ mà mọi người nắm giữ. Khi mọi người nợ tiền, sự tăng giá mạnh là món hời cho họ. Các chính phủ thấy rằng gánh nặng những món nợ của mình thu hẹp lại trong thời kỳ lạm phát. Tác động chính về phân phối lại của lạm phát xảy ra thông qua ảnh hưởng của nó đối với giá trị thực tế trên của cải của mọi người. Nhìn chung, lạm phát không dự đoán được thường phân phối lại của cải từ những người chủ nợ sang con nợ, giúp người đi vay và làm thiệt hại người cho vay. Một sự giảm xuống không lường trước được trong lạm phát có tác động ngược lại.
Tác động đến hiệu quả kinh tế: ảnh hưởng đến tổng sản lượng và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế.
Lạm phát có hại cho hiệu quả kinh tế do nó làm sai lệch những tín hiệu giá. Trong nền kinh tế lạm phát thấp, nếu giá thị trường của một hàng hóa tăng lên thì cả người mua lẫn người bán sẽ biết là đã có sự thay đổi thực sự trong tình hình cung/cầu đối với hàng hóa đó và họ có thể phản ứng một cách thích hợp. Ngược lại, trong một nền kinh tế lạm phát cao, rất khó phân biệt giữa những thay đổi của giá tương đối và những thay đổi của mức giá chung. Lạm phát cũng làm sai lệch việc sử dụng tiền vì tiền chính là tiền tệ có lãi suất danh nghĩa bằng không.
Các nghiên cứu cho thấy khi lạm phát tăng lên, mọi người dành những nguồn lực thực tế cho việc giảm bớt nhu cầu giữ tiền mặt của mình. Họ sẽ đến ngân hàng thường xuyên hơn – sẽ đi “mòn giày” và tiêu tốn thời gian quí giá. Các công ty sẽ xây dựng những kế hoạch quản lý tiền mặt cẩn thận hơn. Các nguồn lực thực tế do đó được tiêu dùng cho việc đối phó với thước đo tiền tệ đang thay đổi hơn là để tiêu dùng hay đầu tư có giá trị.
Tác động của lạm phát đến thuế có thể còn lớn hơn. Trong một hệ thống thuế mà mọi người phải đóng thuế cao hơn khi thu nhập danh nghĩa cao hơn thì lạm phát tự động làm tăng thuế suất trung bình của mọi người. Một số nhà kinh tế chỉ ra chi phí thực đơn của lạm phát. Tinh thần là, khi giá thay đổi, các hãng sẽ phải tốn những nguồn lực thức tế để điều chỉnh giá của họ. Chẳng hạn, các nhà hàng phải in lại thực đơn, các hãng phải đặt hàng qua bưu điện làm lại catalogue, các công ty taxi đặt lại đồng hồ tính tiền trên xe, các thành phố điều chỉnh đồng hồ tính tiền nơi đỗ xe, và các cửa hiệu thay đổi bảng giá hàng hóa. Ngoài ra, các chính phủ thường để cho giá trị thực tế của các chương trình của mình bị xói mòn khi giá tăng lên, các khoản phúc lợi của chính phủ dành cho người nghèo đã giảm xuống về giá trị thực tế khi chính phủ quyết định không tăng ngân sách của mình để theo kịp với giá sinh hoạt đang tăng lên.
Tác động lên kinh tế vĩ mô: Nghiên cứu lịch sử kỹ lưỡng hơn cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa sản lượng và lạm phát chỉ là mối quan hệ tạm thời. Trong dài hạn, dường như không có mối quan hệ bền vững giữa tỷ lệ lạm phát của một nước và tốc độ tăng trưởng của sản lượng và việc làm. Quyết định của các ngân hàng trung ương nhằm kiềm chế lạm phát là nguyên nhân chủ yếu của sự suy thoái trầm trọng và kéo dài ở các nước Bắc Mỹ theo sau sự kiện tăng giá dầu mỏ năm 1979, cũng như sự suy giảm nghiêm trọng kéo dài ở Tây Âu trong nửa đầu thập kỷ 90.
Bản chất và tác động của lạm phát
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT
Pingback: Lý thuyết lạm phát hiện đại - Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ