Thực trạng chính sách, pháp luật thuế và tác động đến tuân thủ thuế của người nộp thuế

Phương pháp phân tích tình hình tài chính tại doanh nghiệp

Mục lục

Thực trạng chính sách, pháp luật thuế và tác động đến tuân thủ thuế của người nộp thuế

1. Bổ sung, hoàn thiện Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành

Trước khi có Luật Quản lý thuế, các quy định về quản lý thuế, các thủ tục về thuế được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật về thuế, không thống nhất và thiếu tính pháp lý. Điều này không chỉ gây khó khăn cho CQT trong quá trình tổ chức quản lý thu thuế mà còn cản trở lớn đến việc tuân thủ thuế của NNT. Trong điều kiện đó, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 được ban hành ngày 28/11/2006, có hiệu lực từ 01/7/2007 nhằm quy định tất cả các nội dung về quản lý thuế vào trong một luật để đảm bảo tính pháp lý và tính thống nhất của các quy định về công tác quản lý thuế ở Việt Nam.

Luật Quản lý thuế còn được tiếp tục hoàn thiện thông qua quá trình sửa đổi, bổ sung theo các Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012, Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014, Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016.

Luật Quản lý thuế được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho NNT nộp đúng, đủ kịp thời tiền thuế vào NSNN và cơ quan quản lý thuế thu đúng, thu đủ tiền thuế; quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của NNT, cơ quan quản lý thuế và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý thuế. Đồng thời, Luật được ban hành nhằm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế.

Luật Quản lý thuế được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật lúc bấy giờ về quản lý thuế để quy định thống nhất trong Luật Quản lý thuế chung, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách quản lý thuế trong những năm tới. Đồng thời, Luật đã tham khảo và tiếp cận với những kinh nghiệm quản lý thuế của các nước tiên tiến, áp dụng phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Luật đã góp phần tạo hành lang pháp lý cho đổi mới phương thức quản lý thuế từ cơ chế chuyên quản, NNT thụ động trong thực hiện nghĩa vụ thuế sang cơ chế NNT chủ động trong việc xác định đúng số thuế phải nộp, thực hiện nộp thuế đúng thời hạn cũng như xác định các ưu đãi thuế, quyền lợi về thuế của mình, thúc đẩy tính tuân thủ tự nguyện của NNT. Cơ quan quản lý thuế tập trung vào thực hiện tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn pháp luật thuế, kiểm tra, thanh tra bảo đảm tuân thủ thuế. Ngoài ra, Luật Quản lý thuế còn phải đảm bảo tính thống nhất với các Luật khác có liên quan như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Hải quan, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính…

Đặc biệt, Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế và Luật Quản lý thuế đã bổ sung một nguyên tắc quan trọng về quản lý thuế, đó là “Ứng dụng quản lý rủi ro vào quản lý thuế”. Trên cơ sở đó, ngày 21/12/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 204/2015/TT-BTC quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế. Thông tư này quy định về việc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế của CQT các cấp để đánh giá việc tuân thủ thuế đối với NNT trong các nghiệp vụ quản lý thuế ở tất cả các khâu, gồm: Đăng ký thuế; khai thuế; nộp thuế; nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; hoàn thuế; kiểm tra; thanh tra thuế; tạo, in, phát hành, quản lý và sử dụng ấn chỉ thuế và các nghiệp vụ quản lý thuế khác trong quá trình thực hiện các hoạt động nghiệp vụ. Các nội dung liên quan đến quản lý rủi ro được quy định trong Thông tư bao gồm: Thu thập, xử lý, quản lý sử dụng thông tin, dữ liệu liên quan về NNT; ban hành bộ tiêu chí quản lý thuế và tổ chức đánh giá rủi ro, đánh giá tuân thủ thuế đối với NNT đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong từng thời kỳ; áp dụng các biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế đối với NNT tương ứng với mức độ rủi ro của NNT. Với việc xếp những NNT chấp hành tốt pháp luật thuế vào nhóm rủi ro thấp và được hưởng nhiều ưu đãi và thuận lợi hơn trong các thủ tục về thuế, việc ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro vào quản lý thuế không chỉ tạo cơ sở nâng cao hiệu quả quản lý thuế mà còn góp phần thúc đẩy NNT tuân thủ thuế tốt hơn.

[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm: Tuân thủ thuế là gì? Khái niệm tuân thủ thuế[/message]

Qua 10 năm triển khai thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Quản lý thuế cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra. Trong đó, nổi bật là các nội dung sau:

– Cải cách thủ tục hành chính thuế, thống nhất các quy định về thủ tục và quản lý thuế từ các luật thuế khác nhau, tạo ra một hệ thống pháp luật về quản lý thuế đồng bộ, công khai đối với NNT, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT khi thực hiện tuân thủ nghĩa vụ thuế. Việc quy định cụ thể thủ tục thuế còn tạo cho DN chủ động trong việc tính và khai thuế, chủ động xác định nghĩa vụ thuế trong kế hoạch kinh doanh của DN để lựa chọn phương án kinh doanh đạt hiệu quả cao.

– Nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của NNT thông qua nguyên tắc tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Luật Quản lý thuế quy định cụ thể việc khai thuế, nộp hồ sơ, tính thuế, xác định ưu đãi thuế dễ tiếp cận giúp DN thực hiện tốt nghĩa vụ thuế với chi phí và thời gian phù hợp giúp DN tận dụng và khai thác các nguồn lực cho hoạt động kinh doanh. Điều này đã giúp DN tiết kiệm được thời gian và chi phí trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự tuân thủ thuế một cách tự nguyện ở tất cả NNT. Các quy định này cũng đã bảo đảm tính minh bạch của hệ thống pháp luật; hạn chế việc áp dụng tùy tiện các thủ tục về thuế ngăn chặn được các hành vi cán bộ quản lý thuế gây khó khăn cho DN.

– Luật Quản lý thuế quy định rõ ràng, chi tiết, đầy đủ về trách nhiệm, quyền hạn cũng như chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể liên quan đến công tác quản lý thuế, từ đó, giúp cho các chủ thể này nắm rõ được những nội dung công việc và yêu cầu đặt ra để có thể tuân thủ tốt pháp luật thuế. Đồng thời, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xem xét, đánh giá mức độ tuân thủ của các đối tượng liên quan trong quản lý thuế, phục vụ cho việc chỉ đạo, quản lý, điều hành của các cấp quản lý. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế.

– Tạo hành lang pháp lý, quy định xử lý vi phạm pháp luật về thuế nhất quán, bước đầu đã tạo điều kiện công bằng cho NNT. Từ đó, thúc đẩy nâng cao tính tuân thủ thuế của NNT.

Bên cạnh những kết quả đạt được và những tác động tích cực nêu trên, hành lang pháp lý về quản lý thuế vẫn còn những hạn chế nhất định có ảnh hưởng không tốt đến hành vi tuân thủ của NNT. Cụ thể là:

– Trình tự thực hiện các biện pháp cưỡng chế nợ thuế vẫn còn khá cứng nhắc nên không phát huy tốt hiệu quả của những biện pháp cưỡng chế nợ thuế phù hợp nhất với những NNT nhất định.

– Thông tư 204/2015/TT-BTC quy định chung về ứng dụng quản lý rủi ro vào quản lý thuế ở tất cả các khâu của quá trình quản lý thuế. Trong thông tư này cũng quy định, Tổng cục Thuế phải tham mưu để Bộ Tài chính cụ thể hóa các chỉ tiêu, chỉ số nhằm áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro cho từng lĩnh vực quản lý thuế cụ thể. Tuy vậy, công tác tham mưu ban hành các chỉ tiêu và chỉ số rủi ro này còn rất chậm, không đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý. Vì lẽ đó, kỹ thuật quản lý rủi ro chưa được áp dụng đầy đủ và toàn diện ở tất cả các khâu của quá trình quản lý thuế.

2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm về thuế

Như đã phân tích ở phần các nhân tố ảnh hưởng, việc phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các hành vi không tuân thủ thuế là một yếu tố quan trọng tác động đến tính tuân thủ thuế của NNT. Nếu pháp luật thuế không nghiêm minh, các hành vi không tuân thủ không được xử lý một cách nghiêm minh và triệt để thì mức độ tuân thủ thuế sẽ sụt giảm và ngược lại. Chính vì vậy, trong thời gian qua, các quy định pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế ở Việt Nam rất được quan tâm, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế, quản lý thuế và thúc đẩy sự tuân thủ thuế của NNT. Các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thời gian qua đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng ngày càng đầy đủ chặt chẽ và có tính răn đe. Cụ thể là:

– Sau khi Luật Quản lý thuế ra đời, trên cơ sở các quy định của luật này và Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghị định 98/2007/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 61/2007/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định này. Những văn bản pháp luật này đã sửa đổi, bổ sung nhiều điểm chưa hợp lý hoặc không còn phù hợp với thực tiễn khách quan của các quy định xử lý vi phạm hành chính thuế đã ban hành trước đó. Đáng chú ý là những vấn đề sau: (i) Bổ sung các quy định về các hành vi vi phạm và hình thức xử phạt trước đây chưa quy định nhưng đã phát sinh trong thực tiễn, đó là hành vi khai thiếu thuế và một số hành vi vi phạm về thủ tục thuế; (ii) Sửa đổi thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thuế cho phù hợp với Luật Quản lý thuế; (iii) Quy định rõ mức xử phạt trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để tránh sự vận dụng tùy tiện của người thực thi công vụ; (iv) Sửa đổi quy định về xử lý hành vi trốn thuế khi quá thời hiệu xử phạt, theo đó, hành vi trốn thuế bị phát hiện khi đã quá thời hiệu xử phạt thì không xử phạt hành chính nhưng vẫn bị truy thu thuế (trước đây không truy thu và không xử phạt khi quá thời hiệu).

– Để giải quyết những vướng mắc và bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Quản lý thuế, Nghị định 98/2007/NĐ-CP, Chính phủ đã ban hành Nghị định 129/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế thay thế cho các Nghị định 98/2007/NĐ-CP và 13/2009/NĐ-CP. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 166/2013/TT-BTC quy định chi tiết về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Các quy định pháp luật này đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung những điểm bất hợp lý hoặc không còn phù hợp với thực tiễn quản lý thuế, trong đó có những điểm đáng chú ý sau đây:

(i) Hành vi trốn thuế bị phát hiện khi hết thời hiệu thì bị truy thu trong thời hạn tối đa 10 năm, trừ trường hợp kinh doanh mà không đăng ký thuế. Trước đây không giới hạn thời hạn truy thu nên rất không khả thi trong tổ chức thực hiện.

(ii) Bổ sung quy định mức xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân bằng một nửa so với tổ chức.

(iii) Nâng mức xử phạt khai thiếu thuế từ 10% lên 20%.

(iv) Áp dụng cách tính tiền chậm nộp thuế lũy tiến theo số ngày chậm nộp: Trong 90 ngày đầu tiên tỷ lệ tính tiền chậm nộp thuế là 0,05%/ngày; quá 90 ngày, tỷ lệ này là 0,07%/ngày. Hiện nay, tỷ lệ tính tiền chậm nộp áp dụng chung là 0,03%/ngày. Đồng thời, bổ sung quy định tính tiền phạt chậm nộp trên cả số tiền chậm nộp.

(v) Bổ sung hình thức xử phạt đối với một số hành vi vi phạm thủ tục trước đây chưa xử phạt.

(vi) Bổ sung quy định về thi hành quyết định xử phạt hành chính thuế trong trường hợp cá nhân bị xử phạt bị chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức bị xử phạt bị phá sản, giải thể.

(vii) Bổ sung quy định cho phép người bị xử phạt hành chính có thể được nộp phạt làm nhiều lần [40].

Rõ ràng, các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế đã được quan tâm, sửa đổi, đảm bảo được tính hiệu lực, răn đe đối với các hành vi không tuân thủ của NNT. Các quy định này cũng đã tính đầy đủ tới mức độ và khả năng thực thi của NNT trong từng điều kiện, hoàn cảnh nhất định, vừa đảm bảo tính nghiêm minh, vừa có tác dụng cảnh báo, nhắc nhở đối với từng hành vi vi phạm của NNT, hạn chế tới mức thấp nhất sự không tuân thủ thuế của họ.

3. Hoàn thiện các luật thuế

Giai đoạn 2011 – 2016 là giai đoạn mà hệ thống thuế Việt Nam được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhiều nhất. Cụ thể:

Thuế giá trị gia tăng: Trong giai đoạn này, thuế GTGT được thực hiện theo Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 03/06/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Để đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, khả năng quản lý cũng như mức độ tuân thủ thuế của NNT, Luật thuế GTGT được tiếp tục sửa đổi, bổ sung vào các năm 2013, 2014 và 2016. Trong đó, một nội dung quan trọng luôn được nhấn mạnh khi sửa đổi, bổ sung Luật thuế GTGT cũng như các Luật thuế khác là tiếp tục đảm bảo sự đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện của chính sách thuế, tạo thuận lợi nhất cho NNT trong quá trình tuân thủ thuế và đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, hiện đại hoá công tác quản lý thuế, phù hợp với xu thế cải cách hệ thống thuế.

Quá trình hoàn thiện pháp luật thuế GTGT giai đoạn 2011 – 2016 đã góp phần làm cho Luật thuế này tiếp tục là nguồn thu quan trọng, ổn định, bảo đảm tỷ lệ động viên hợp lý cho NSNN nhằm đáp ứng nguồn tài chính cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội. Đồng thời, chính sách thuế GTGT hiện hành đã góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, minh bạch các hoạt động kinh tế, chống gian lận; thúc đẩy hạch toán kế toán, sử dụng hóa đơn, chứng từ, nâng cao năng lực quản trị DN; thúc đẩy đến mức cao nhất tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam.

Thuế TNDN: Trong giai đoạn 2011 – 2016, thuế TNDN tại Việt nam được thực hiện theo Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 ban hành ngày 03/06/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/04/2009 thay thế cho Luật thuế TNDN năm 2003. Đến năm 2013, Quốc hội khóa 13 đã ban hành Luật thuế TNDN sửa đổi, bổ sung số 32/2013/QH13 ngày 19/06/2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014 (một số nội dung có hiệu lực từ ngày 01/07/2013). Đến 26/11/2014, Luật thuế TNDN được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 71/2014/QH13.

Trong đó, Luật thuế TNDN sửa đổi, bổ sung số 32/2013/QH13 ngày 19/06/2013 với nhiều nội dung đổi mới đã có các tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế Việt Nam. Luật đã bổ sung, làm rõ và quy định chi tiết, cụ thể nhiều vấn đề như: (1) Về khái niệm cơ sở thường trú; (2) Về thu nhập chịu thuế; (3) Về thu nhập được miễn thuế; (4) Về xác định thu nhập tính thuế và chuyển lỗ đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản và một số khoản thu nhập mới phát sinh; (5) Về khoản chi được trừ và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN; (6) Về thuế suất; (7) Về ưu đãi thuế; (8) Về ưu đãi thuế đối với đầu tư mở rộng; (9) Về bổ sung quy định mức trích tối thiểu Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp nhà nước; (10) Quy định cụ thể một số khoản thu nhập không được ưu đãi thuế; (11) Về hiệu lực thi hành và xử lý đối với các trường hợp đang được hưởng ưu đãi theo Luật hiện hành. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN sẽ đảm bảo chính sách rõ ràng, minh bạch, đơn giản, giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho NNT và công tác quản lý thuế, khuyến khích DN đầu tư, phát triển sản xuất, thu hút đầu tư qua đó đã có tác động tích cực đối với kinh tế – xã hội trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn.

Qua quá trình thực thi, đến nay, chính sách thuế TNDN đã có tác động nhất định trong việc quản lý, điều tiết và thúc đẩy phát triển kinh tế; có tác động tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh thuận lợi, đảm bảo công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh; thực hiện giảm mức thuế chung để DN có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc sửa đổi quy định về ưu đãi thuế trong Luật thuế TNDN cũng đã góp phần tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn và một số ngành, lĩnh vực quan trọng theo chính sách phát triển của Nhà nước. Ngoài ra, thuế TNDN góp phần đảm bảo nguồn thu cho NSNN, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.

Đặc biệt, chính sách thuế TNDN ngày càng công khai, minh bạch, đơn giản, đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan và phù hợp với thực tiễn, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT trong quá trình tuân thủ thuế, góp phần thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện pháp luật thuế của NNT ở Việt Nam.

Thuế TNCN: Năm 2007, Luật thuế TNCN được ban hành theo Luật số 04/2007/QH12 ngày 21/12/2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 thay thế cho Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trước đó. Đến năm 2012, Luật sửa đổi, bổ sung theo Luật số 26/2012/QH13 ngày 22/11/2012 ra đời và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013. Một số điều của Luật thuế này còn được sửa đổi, bổ sung vào năm 2014 tại Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014.

Luật thuế TNCN được ban hành nhằm thể chế hoá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính theo Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X. Đồng thời, việc ban hành Luật thuế này nhằm tăng cường công tác kiểm soát, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế – xã hội và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới của Việt Nam.

Quan điểm, mục tiêu chính khi xây dựng Luật thuế TNCN được xác định là: (1) Đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội; (2) Đảm bảo động viên một cách hợp lý thu nhập dân cư, khuyến khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập làm giàu chính đáng; (3) Đảm bảo các bước đi phù hợp với tình hình nước ta và thông lệ quốc tế; kế thừa có chọn lọc những quy định trong chính sách thuế hiện hành; (4) Đảm bảo huy động nguồn lực để Nhà nước giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.

Luật thuế TNCN là luật thuế có tác động trực tiếp đến đời sống của các tầng lớp dân cư. Việc ra đời và hoàn thiện dần của Luật thuế này đã có các tác động quan trọng trong đảm bảo nguồn thu NSNN, điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Đặc biệt, các quy định về thu nhập chịu thuế, giảm trừ gia cảnh, thu nhập tính thuế, biểu thuế đã thể hiện tương đối phù hợp và tương thích với hệ thống chính sách thuế của các nước đang áp dụng hiện nay.

Trong quá trình thực thi, chính sách thuế TNCN đã thể hiện tính linh hoạt để thích ứng với các điều kiện kinh tế cụ thể với mục tiêu giải quyết khó khăn, giúp các cá nhân có thu nhập tính thuế vượt qua được những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế. Đó là chính sách miễn, giảm, gia hạn nộp thuế năm 2009, miễn thuế cho cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công phải tính thuế trong bậc 1 của Biểu thuế năm 2012… Đặc biệt, sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013 với việc nâng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân NNT từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng và cho 1 người phụ thuộc từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng đã cho thấy sự điều chỉnh hợp lý của Nhà nước nhằm đảm bảo thu nhập và đời sống cho NNT. Qua đó, thúc đẩy NNT tuân thủ chính sách thuế của Nhà nước.

Thuế TTĐB: Trong giai đoạn 2011 – 2016, thuế TTĐB ở Việt Nam được thực hiện theo Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 ngày 14/11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/04/2009 thay thế cho Luật thuế TTĐB năm 1998 và các văn bản có liên quan. Luật thuế TTĐB sau đó tiếp tục được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 70/2014/QH13 ngày 26/11/2014 và Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/04/2016.

Luật thuế TTĐB được ban hành nhằm vào các mục tiêu chính như: Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng của xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng cho NSNN một cách hợp lý; Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, giảm nhập siêu, kiềm chế lạm phát và không gây đột biến trong sản xuất, tiêu dùng; Thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế; Bảo đảm nguồn thu cho NSNN.

Trong quá trình thực hiện, cho đến nay, Luật thuế này về cơ bản đã đáp ứng được các mục tiêu chính nêu trên, cụ thể:

– Thuế TTĐB đã góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng theo định hướng của Nhà nước. Đối tượng chịu thuế chủ yếu là những loại hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước không khuyến khích hoặc hạn chế tiêu dùng như thuốc lá, rượu, bia, kinh doanh vũ trường hoặc hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước cần điều tiết như ô tô, xe máy, xăng, kinh doanh sân gôn… phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta cũng như thông lệ quốc tế.

– Thuế TTĐB đã đáp ứng yêu cầu phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc quy định thống nhất mức thuế suất đối với hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu, bãi bỏ các quy định về những ưu đãi đối với các mặt hàng sản xuất trong nước như ô tô, thuốc lá…

– Thuế TTĐB góp phần bảo đảm nguồn thu cho NSNN.

– Đặc biệt, các quy định của Luật thuế TTĐB ngày càng rõ ràng, minh bạch hơn, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi trốn thuế, tránh thuế của NNT (nhất là quy định về xác định giá tính thuế trong trường hợp cơ sở sản xuất bán hàng qua cơ sở kinh doanh thương mại có quan hệ liên kết và hàng nhập khẩu chịu thuế tiếp tục tiêu thụ trong nước…).

Thuế tài nguyên: Chính sách thuế tài nguyên ở Việt Nam được bắt đầu thực hiện theo Pháp lệnh thuế Tài nguyên ban hành ngày 30/03/1990. Pháp lệnh này được sửa đổi, bổ sung năm 1998. Đến ngày 25/11/2009, Quốc hội khóa 12, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật thuế Tài nguyên (bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/07/2010) thay thế cho Pháp lệnh Thuế tài nguyên.

Việc ban hành và áp dụng Luật thuế Tài nguyên đã có tác động tích cực đối với các tổ chức, cá nhân có khai thác, sử dụng tài nguyên, góp phần tạo ý thức khai thác và sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, tạo nguồn thu cho NSNN. Thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính thể hiện vai trò sở hữu nhà nước đối với tài nguyên quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân. Quá trình thực hiện Luật thuế Tài nguyên đã góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và bảo đảm nguồn thu cho NSNN.

Như vậy, trong giai đoạn này, chương trình cải cách thuế đến năm 2010 cơ bản hoàn thành định hướng ban hành những loại thuế mới và sửa đổi, bổ sung các sắc thuế chủ yếu hiện hành để phù hợp với giai đoạn hội nhập kinh tế, thực hiện các cam kết quốc tế hướng đến thương mại tự do thông qua tỷ trọng các loại thuế trực thu trong tổng thu thuế.

Ngoài ra, trong giai đoạn 2011 – 2016, có hai sắc thuế mới bắt đầu hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. Đó là Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 ngày 17/06/2010 thông qua và Luật thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 ngày 15/11/2010 thông qua. Đây là loại thuế mới trong hệ thống thuế hiện hành, thay thế cho việc áp dụng một số loại phí (như phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn…). Sự ra đời của hai Luật thuế mới này đã góp phần hoàn thiện hơn hệ thống thuế ở Việt Nam, bao quát được các khả năng nộp thuế trong xã hội, góp phần thúc đẩy tuân thủ thuế một cách toàn diện của NNT ở Việt Nam.

Mặc dù vậy, do chính sách thuế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2016 vẫn còn thiếu tính ổn định, có sắc thuế được điều chỉnh, bổ sung liên tục như thuế GTGT, thuế TTĐB, TNCN… đã gây ra khó khăn cho người nộp thuế trong quá trình tuân thủ.

Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật thuế của Việt Nam nói riêng còn thiếu đồng bộ, nhiều nội dung còn chồng chéo, gây khó khăn cho người thực hiện. Cụ thể, một số quy định trong các văn bản pháp luật thuế cũng như Luật Quản lý thuế còn chưa rõ ràng, chưa cụ thể lại thay đổi liên tục, làm cho việc hiểu và vận dụng pháp luật không nhất quán, gây khó khăn trong quá trình thực hiện đối với người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế. Trong một số trường hợp, do yêu cầu gấp về thời gian thực hiện các văn bản quản lý thuế mới, người nộp thuế và cả cơ quan thuế chưa có sự chuẩn bị về chuyên môn, nghiệp vụ, điều kiện vật chất, kỹ thuật cũng như về tâm lý nên việc triển khai mang tính hình thức, đối phó. Điều này làm cho chi phí tuân thủ của người nộp thuế tăng lên, trong khi khả năng quản lý, kiểm soát của cơ quan thuế còn có hạn nên cũng tạo cơ hội cho các hành vi gian lận và sự không tuân thủ của người nộp thuế.

Cùng với đó, chính sách thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp khá thông thoáng, nhưng việc theo dõi nắm bắt tình hình hoạt động của doanh nghiệp đó như thế nào thì còn chưa chặt chẽ. Từ khâu hậu kiểm, quản lý doanh nghiệp sau giấy phép đến sự phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan quản lý nhà nước còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho việc thành lập các doanh nghiệp “ma”. Mặt khác, cơ chế thanh toán giữa các giao dịch kinh tế phần lớn còn chưa bắt buộc thông qua hệ thống ngân hàng, do vậy rất khó kiểm soát việc các hoạt động kinh tế đó đã phát sinh thực tế hay chỉ trên giấy tờ.

Tóm lại, xét một cách tổng thể, quá trình điều chỉnh và hoàn thiện chính sách, pháp luật thuế ở Việt Nam thời gian qua đã theo hướng tích cực, có nhiều tác động  tốt đến tính tuân thủ thuế của NNT ở Việt Nam. Tuy vậy, chính sách và pháp luật thuế vẫn còn những tác động chưa tốt cần nghiên cứu hoàn thiện để góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế của NTT ở Việt Nam.

Thực trạng chính sách, pháp luật thuế và tác động đến tuân thủ thuế của người nộp thuế

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?