Mục lục
Những tác động của vốn FDI đối với nền kinh tế
Tác động tích cực của vốn FDI đối với nền kinh tế
Thứ nhất, thúc đẩy chuyển giao, phát triển công nghệ nhất là ở những nước đang phát triển.
Ở các nước đang phát triển, do còn hạn chế về trình độ phát triển kinh tế xã hội, giáo dục, khoa học cũng như thiếu ngoại tệ nên công nghệ ở trong nước thường là công nghệ lâu đời lạc hậu, năng suất lao động thấp.. vốn FDI được coi là nguồn quan trọng để thúc đẩy phát triển công nghệ của nước tiếp nhận vốn FDI. Công nghệ mới được các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào qua các con đường như: thông qua việc mua bằng phát minh sáng chế và cải tiến công nghệ nhập khẩu trở thành công nghệ phù hợp cho mình (như các quốc gia đã từng làm là Hàn Quốc và Nhật Bản). Khi triển khai dự án đầu tư vào một nước, chủ đầu tư nước ngoài không chỉ chuyển vào nước đó vốn bằng tiền, mà còn chuyển cả vốn vật tư hàng hoá như: máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu… và cả những giá trị vô hình như: công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng tiếp cận thị trường… cũng như đưa chuyên gia nước ngoài vào hoặc đào tạo các chuyên gia bản xứ về các lĩnh vực cần thiết phục vụ hoạt động của dự án. Điều này cho phép các nước nhận đầu tư không chỉ nhập khẩu công nghệ đơn thuần, mà còn nắm vững cả kỹ năng quản lý vận hành, sửa chữa, mô phỏng và phát triển nó, nhanh chóng tiếp cận được với công nghệ hiện đại ngay cả khi nền tảng công nghệ quốc gia chưa được tạo lập đầy đủ.
Bện cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua vốn FDI đặc biệt là thông qua các công ty xuyên quốc gia còn góp phần tích cực đối với tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Các kết quả cho thấy phần lớn các hoạt động R&D của các chi nhánh công ty xuyên quốc gia ở nước ngoài là cải tiến công nghệ cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương. Dù vậy, các hoạt động cải tiến công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng trong nước. Nhờ đó mà gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài, nhà đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, sáng tạo…công nghệ nguồn, sau đó cải tiến cho phù hợp với điều kiện của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình. Nhờ có các tác động tích cực trên mà khả năng công nghệ của nước chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao được năng suất từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế[29].
Thứ hai, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực cho địa phương
Thông qua vốn FDI sẽ tạo ra các doanh nghiệp mới hoặc làm tăng quy mô các đơn vị hiện có từ đó tạo ra công ăn việc làm cho rất nhiều lao động, đặc biệt là các nước đang phát triển có luôn có nguồn lao động dồi dào, nhưng thiếu vốn để khai thác và sử dụng, sự xuất hiện của hàng loạt các doanh nghiệp FDI, lao động làm việc trong khu vực FDI cũng sẽ tiếp thu được nhiều kỹ năng chuyên môn và quản lý. Đội ngũ lao động quản lý sẽ tiếp thu được kỹ thuật quản lý tiên tiến, hiện đại ở các nước khác nhau trên thế giới, cách tiếp cận thị trường, khả năng đàm phán, xúc tiến thương mại, quản trị nhân lực…còn người lao động trong các doanh nghiệp sẽ tiếp thu được kỷ luật lao động, tác phong làm việc, cách thức sắp xếp và tổ chức công việc để hoàn thành sản xuất đúng thời gian và số lượng…
Ngoài ra còn làm tăng thu nhập cho người lao động bởi tiền lương trả từ các doanh nghiệp có vốn FDI thường lớn hơn các doanh nghiệp trong nước, từ đó cải thiện được đời sống của người lao động. Hơn nữa, các dự án FDI thường tổ chức các khóa đào tạo cho người lao động của dự án, trong đó có nhiều người được cử đi lao động của nước ngoài từ đó sẽ hình thành ở nước nhận đầu tư một lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề. Đối với những cán bộ quản lý, khi được tham gia các dự án, do yêu cầu của công việc sẽ trưởng thành hơn về năng lực quản lý để phù hợp với nền sản xuất hiện đại. Như vậy, việc tham gia vào các dự án có vốn FDI sẽ tạo cho địa phương phát triển được nguồn nhân lực. Đây là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bởi vì trình độ nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất, các vấn đề xã hội. Và phản ứng dây chuyền tự nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn FDI với các doanh nghiệp trong nước trên thị trường lao động là nhân tố thúc đẩy lực lượng lao động tự nâng cao trình độ một cách tích cực và có hiệu quả hơn, góp phần hình thành nhanh hơn một đội ngũ lao động có trình độ, có thói quen tuân thủ nề nếp làm việc theo tác phong công nghiệp hiện đại. Tất cả những điều đó sẽ góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động của các nhà đầu tư trong nền kinh tế đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh mạnh mẽ luôn buộc các nhà đầu tư phải đổi mới để nâng cao năng suất lao động, đứng vững trong thị trường cạnh tranh.
[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm : Khái niệm về vốn FDI[/message]
Thứ ba, góp phần cải cách thủ tục hành chính và tăng tính minh bạch cho môi trường đầu tư.
Ngoài xu hướng của các nước trên thế giới là hội nhập để phát triển thì để thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài các nước sở tại luôn phải tự hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra sự minh bạch và bình đẳng cho các nhà đầu tư để cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể an tâm và nhanh chóng triển khai các cơ hội đầu tư. Thực tế cho thấy rằng, với điều kiện các nhân tố khác không đổi thì cùng là một nước nhưng khi có sự thay đổi về hành chính và sự minh bạch về môi trường đầu tư được cải thiện thì sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn.
Khi các nhà đầu tư nước ngoài đã triển khai các dự án đầu tư, định kỳ hoặc thường xuyên họ được gặp gỡ với các cơ quan quản lý của nước sở tại để trao đổi các vấn đề về thủ tục, chính sách tài chính, chính sách thuế…điều này sẽ góp phần không nhỏ cho việc xây dựng các văn bản pháp pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm lợi ích cho các nhà đầu tư, lợi ích của nước sở tại và lợi ích của cả cộng đồng.i
Thứ tư, góp phần giúp hội nhập sâu rộng vào hoạt động kinh tế quốc tế và tăng cường quan hệ đối ngoại với các nước, các tập đoàn lớn và các tổ chức trên thế giới.
Đối với các nước đang phát triển thì có nhu cầu về ngoại tệ lớn để hiện đại hoá nền kinh tế. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu và thực tế là chiếm tỷ trọng cao trong tổng xuất khẩu của các nước đang phát triển, ở nước ta trong giai đoạn hiện nay tỷ lệ này chiếm hơn 50% và có xu hướng tăng trong thời gian sắp tới khi chúng ta hội nhập sâu vào kinh tế thế giới. Đặc biệt, thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia hay các công ty đa quốc gia nhiều sản phẩm sản xuất tại nước ta đã tiếp cận được với thị trường của thế giới. Thời gian qua, trong lĩnh vực khách sạn và du lịch nhờ có các nhà đầu tư nước ngoài mà nhiều khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng, các hoạt động về du lịch, sinh thái, nghỉ dưỡng…đã đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế làm gia tăng nhanh chóng lượng khách du lịch vào nước ta. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư nước ngoài còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng với sự có mặt của các tổ chức tài chính quốc tế và các chi nhánh ngân hàng lớn trên thế giới như: HSBC, ANZ…đã góp phần thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế, giúp cho các giao dịch quốc tế được nhanh chóng và thuận tiện hơn rất nhiều.
Thứ năm, góp phần tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực quản lý, kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng tạo động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa, qua đó nâng cao được năng lực của các doanh nghiệp trong nước.
Thứ sáu, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Chính sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài, các thành phần kinh tế khác trong nước cũng tự phải hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài với sức mạnh về tài chính, quản lý, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh lâu năm…là đối thủ cạnh tranh lớn đối với các nhà đầu tư trong nước, là động lực khiến họ phải nhanh chóng tìm ra con đường, trước tiên là để tồn tại, đứng vững sau đó là phát triển trên mảnh đất của chính mình nếu không thì tự mình đào thải khỏi hoạt động kinh doanh. Cùng với vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý tiên tiến và với mục tiêu lợi nhuận các nhà đầu tư nước ngoài phải sản xuất ra các sản phẩm được chấp nhận trên thị trường trong nước và quốc tế. Điều này khiến cho hàng hóa của nước tiếp nhận đầu tư tiếp cận được với thị trường quốc tế.
Tác động tiêu cực của vốn FDI đối với nền kinh tế
Thứ nhất, hiện tượng “chuyển giá” khá phổ biến trong đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hành vi chuyển giá khi hoạt động kinh doanh tại nước sở tại có những thay đổi mà điều kiện khó rút vốn hoặc việc chuyển lợi nhuận ra khỏi lãnh thổ do điều kiện ràng buộc khó khăn hay thâu tóm, trốn thuế tại nước sở tại. Những hành vi chuyển giá đã tác động xấu đến nền kinh tế, gây thất thu lớn cho Nhà nước, bóp méo môi trường kinh doanh, tạo sức ép bất bình đẳng, gây phương hại đối với những nhà đầu tư chấp hành tốt đúng như trong cam kết, làm suy giảm hiệu lực quản lý Nhà nước trong việc thực hiện các chủ trương kêu gọi đầu tư để phát triển kinh tế – xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu tăng do số ngoại tệ dùng để nhập khẩu nguyên liệu vật tư luôn lớn hơn số ngoại tệ thu về khi xuất khẩu sản phẩm vì bán giá thấp hơn giá vốn. Các dấu hiệu của hiện tượng chuyển giá thông thường diễn ra thuộc các dạng dưới đây:
– Các nhà đầu tư nước ngoài hạ thấp mức giá đầu ra thông qua các hợp đồng xuất khẩu do các công ty mẹ hoặc các đối tác liên kết với công ty mẹ. Lợi dụng bên liên doanh và các cơ quan quản lý Nhà nước không có được thông tin về đối tác có hợp đồng để quan hệ liên kết, các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện chuyển giá bằng cách bán sản phẩm, dịch vụ cùng nhóm lợi ích với giá thấp hơn giá thị trường, nhiều trường hợp bán với giá thấp hơn giá thành khi mua sản phẩm, dịch vụ được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp.
– Các nhà đầu tư nước ngoài đẩy giá thông qua các yếu tố đầu vào như: Tăng chi phí khấu hao tài sản cố định: Lợi dụng việc xác định giá trị thiết bị của các doanh nghiệp liên kết có thể không rõ xuất xứ hàng hoá mà cơ quan thuế, hải quan xác định thuế trên cơ sở giá trị theo chứng từ hoá đơn mà đối tác liên kết cung cấp nên giá trị máy móc thiết bị và tài sản cố định khác được nhập khẩu hoặc nhập vào vùng lãnh thổ khác trong cùng lãnh thổ Việt Nam có thể được thoả thuận theo mức giá cao. Từ đó, chi phí khấu hao tài sản cố định loại này cũng cao hơn so với thông thường nếu xác định theo giá thị trường.
Tăng chi phí nguyên vật liệu đầu vào bằng cách tương tự với việc định giá tài sản cố định như trên các doanh nghiệp là đối tác trong các quan hệ liên kết đặc biệt cũng tự thoả thuận mức giá nguyên liệu cung cấp cho nhau theo hướng kê khai tăng hơn so với mức giá thị trường.
Tăng chi phí quản lý, bán hàng quản lý… đây là chi phí liên quan đến việc vận hành doanh nghiệp, đây là chi phí mà các doanh nghiệp có thể nâng lên cao để bóp méo giá thành, làm giảm lợi nhuận hoặc lỗ để tránh nghĩa vụ nộp thuế.
Một thủ thuật để nâng chi phí đầu vào để “được” lỗ nhằm lách thuế nữa là dù có vốn nhưng doanh nghiệp vẫn không đưa vào sản xuất mà đi vay vốn bên ngoài với lãi suất cao để đưa vào chi phí, làm tăng giá trị đầu vào. Mặc dù biết không ít các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giá, nâng chi phí đầu vào, nhằm trốn thuế nhưng do các báo cáo thuế thuế luôn hợp lý, hoạt động kiểm tra thuế luôn theo sau, ít nhất cũng sau một năm nên khi cơ quan thuế kiểm tra đã mất hết dấu vết, chỉ còn lại giấy tờ sổ sách đã được cân chỉnh hợp lý.
– Thông qua việc nâng giá trị vốn góp và chuyển giao công nghệ.
Việc nâng giá thiết bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các doanh nghiệp chuyển một lượng tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư. Tình trạng nâng giá trị tài sản góp vốn mang lại thiệt hại cho bên liên doanh là nước nhận liên doanh, làm cho vốn góp của phía nước ngoài tăng lên từ đó bên nước ngoài dễ dàng nắm quyền kiểm soát để điều hành doanh nghiệp. Đối tác nước ngoài sẽ điều hành làm sao cho tình hình thua lỗ kéo dài và cuối cùng làm cho bên đối tác không chịu được đành bán lại cổ phần cho bên nước ngoài. Ngoài hình thức nâng giá trị tài sản góp vốn, các nhà đầu tư nước ngoài còn thực hiện việc chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ, thu phí bản quyền làm tăng chi phí khấu hao tài sản vô hình làm cho tổng chi phí của doanh nghiệp tăng lên từ đó thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ phải nộp ít hơn.
– Cơ chế giá nội bộ trong các giao dịch giữa các doanh nghiệp trong cùng một tập đoàn kinh tế hoặc nhóm các công ty trong nước, nhiều doanh nghiệp được lập ra chỉ nhằm thực hiện sân sau của các doanh nghiệp nhằm khai thác quyền chủ động kinh doanh do pháp luật quy định, với các hợp đồng mua thì cao nhưng bán lại thấp, chia thầu…
– Điều chỉnh cơ cấu trị giá hàng hoá nhập khẩu và dịch vụ đi kèm để giảm thiểu tổng số thuế phải nộp cả ở khâu nhập khẩu và kinh doanh nội địa. Quy định hiện hành về thuế nhập khẩu đối với hàng hoá (tồn tại dưới dạng vật chất, hữu hình), các dịch vụ đi kèm với hàng hoá nhập khẩu được loại trừ ra khỏi giá tính thuế nhập khẩu nhưng phải nộp thuế nhà thầu, trong trường hợp không tách riêng thì các loại thuế đều được tính trên tổng giá trị. Thực hiện cam kết gia nhập WTO, hàng năm chúng ta điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu, giữ nguyên thuế nhà thầu, thực tế đang xảy ra thiên hướng giảm trị giá dịch vụ đi kèm hàng nhập khẩu trong khi xu hướng là tăng giá trị tài sản trí tuệ, do đó không ngoại trừ việc chuyển giá mang tính chất cơ cấu, việc này có thể không làm tăng lợi ích của nhà cung cấp nước ngoài nhưng để bán được hàng, họ sẵn sàng ký phụ lục hợp đồng theo yêu cầu của nhà nhập khẩu Việt Nam.
Thứ hai, có thể dẫn đến mất cân đối trong đầu tư.
Các nhà đầu tư nước ngoài vì chạy theo mục tiêu của mình nên họ thường đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực nhiều khi không trùng khớp với mong muốn của nước nhận đầu tư tại làm cho mục tiêu thu hút bị ảnh hưởng nếu không có cơ chế và những quy hoạch hữu hiệu sẽ dễ dẫn đến tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên sẽ bị khai thác quá mức, các nhà đầu tư nước ngoài còn làm cho cơ cấu kinh tế bị méo mó, chậm được cải thiện và tích tụ nguy cơ mất ổn định chung của đời sống kinh tế xã hội quốc gia như khi dòng vốn FDI rút ra đột ngột, sa thải công nhân hàng loạt…
Thứ ba, gây những tiêu cực về lao động, về tài chính cho nước nhận đầu tư.
Do các nhà đầu tư quốc tế là những đối tác giàu kinh nghiệm và sành sỏi trong kinh doanh, nên trong nhiều trường hợp nước sở tại sẽ chịu nhiều thua thiệt. Ngoài ra, nước sở tại còn có thể chịu cảnh “chảy máu chất xám” do các dự án FDI thường thu hút được các nhà quản lý giỏi vì chế độ đãi ngộ về thu nhập hay môi trường làm việc tốt, tính chuyên nghiệp cao. Chính sự có mặt của các doanh nghiệp có vốn FDI mà làm cho lực lượng lao động, nhất là lao động có tay nghề cao di chuyển từ khu vực kinh tế trong nước sang khu vực FDI có mức thu nhập cao hơn. Hơn nữa, sau khi hoạt động các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển lãi về nước từ đầu tư, ưu đãi thuế và từ các hoạt động khác. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài còn nợ thuế, vay ngân hàng tại nước sở tại với khối lượng lớn sau đó bí mật bỏ trốn ra khỏi nước đầu tư.
Thứ tư, có thể bị du nhập của những công nghệ lạc hậu trên thế giới.
Các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sự yếu kém trong kiểm định và quản lý công nghệ của nước sở tại để du nhập các công nghệ lạc hậu nhưng với giá đắt đỏ gây ra sự lãng phí lớn cho sự dỡ bỏ, thay thế hoặc khắc phục những hậu quả về sau. Tại nước ta trong thời gian vừa qua, đã có nhiều dự án mang vào nhiều thiết bị và công nghệ lạc hậu đã gây ảnh hưởng đến môi trường và lợi ích cộng đồng khác, bị cộng đồng nhân dân và chính quyền địa phương lên tiếng. Khi nhà đầu tư nước ngoài đưa vào những công nghệ lạc hậu thì họ vẫn thu được lợi nhuận trong khi đó nước tiếp nhận không những chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế mà còn ảnh hưởng đến môi trường và các lợi ích khác trong tương lai. Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu không những làm cho công nghệ ngày càng lạc hậu, khả năng sản xuất kém đi mà làm cho nước tiếp nhận còn thêm gánh nặng phải nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ này.
Thứ năm, có nguy cơ làm tăng sự phá sản của những cơ sở kinh tế trong nước và các ngành nghề truyền thống, mất bình đẳng trong cạnh tranh.
Tình trạng các tranh chấp lao động trong khu vực có vốn FDI là khó tránh khỏi, đặc biệt là ở những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Một số chủ doanh nghiệp trả công cho người lao động bằng với mức lương tối thiểu, yêu cầu tăng ca nhiều khiến tiền lương không đủ tái sản xuất sức lao động, làm phát sinh mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công, bãi công đình trệ sản xuất làm thiệt hại cho cả hai bên.
Thứ sáu, mất đi nhiều việc làm truyền thống và chưa coi trọng đúng mức về đào tạo cho người lao động.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều công ăn việc làm cho nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển như nước ta, nơi mà dân số trẻ lực lượng lao động dồi dào thì việc tạo cho người lao động một nơi làm việc có thu nhập ổn định lại vô cùng tốt. Trên thực tế, trong nhiều năm qua khu vực FDI đã tạo ra nhiều triệu lao động trực tiếp và gián tiếp. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động của khu vực FDI cũng đã làm mất đi nhiều đất nông nghiệp từ đó đã làm mất đi nhiều việc làm trong các lĩnh vực truyền thống. Với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu những chi phí, các nhà đầu tư nước ngoài còn thiên về khai thác và sử dụng những nguồn lao động có nhân công giá rẻ, ít qua đào tạo, mang tính mùa vụ mà ít chú trọng đến việc đào tạo và sử dụng nhân lực có tay nghề cao và làm việc lâu dài cho các nhà đầu tư.
Thứ bảy, ảnh hưởng đối với môi trường tự nhiên và khai thác lãng phí tài nguyên.
– Gây ô nhiễm môi trường: Có thể nói một trong những tác động tiêu cực nhất của khu vực FDI đối với nước nhận đầu tư là những ảnh hưởng về môi trường. Đặc biệt là tình hình “xuất khẩu” ô nhiễm từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thông qua FDI ngày càng gia tăng. Các nước đang phát triển có nguy cơ trở thành những nước có mức “nhập khẩu” ô nhiễm cao, nhiều nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam… Hiện nay vấn đề xử lý nước thải tại Việt Nam chưa được chú trọng, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài chưa quan tâm đúng mức đến hệ thống xử lý chất thải. Các chương trình giám sát, xử phạt vẫn chưa được thực hiện một cách toàn diện trong khi ngày càng có nhiều dự án khai thác tài nguyên, vận chuyển dầu với hiểm họa tràn dầu có nguy cơ gia tăng trong các năm tới. Nhiều dự án nước ngoài đã gây ô nhiễm môi trường do công nghệ lạc hậu, chạy theo lợi nhuận, tiết kiệm chi phí…không tính đến khâu xử lý nước thải đã gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
– FDI ảnh hưởng tới đa dạng sinh thái: Bên cạnh những đóng góp quan trọng cho ngành du lịch thì sự đầu tư quá lớn và liên tục gia tăng trong những năm gần đây đã đặt môi trường tự nhiên Việt Nam trước những thách thức lớn. Nguy cơ ảnh hưởng xấu đến đa dạng sinh học, tài nguyên nước, thuỷ sản, khí hậu và gia tăng ô nhiễm các lưu vực sông, gây tàn phá môi trường tự nhiên chú trọng đến việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là các tài nguyên không tái tạo được như khoáng sản, khai thác mỏ…Các khu công nghiệp mở rộng làm diện tích rừng bị thu hẹp, cuộc sống, nơi cư trú của các động vật hoang dã, thực vật đã bị xáo trộn, phá hủy. Trong khi đó, vấn đề bảo vệ môi trường vẫn đang là thách thức lớn đối với Việt Nam hiện nay.
Thứ tám, xuất hiện nguy cơ rửa tiền.
Theo cảnh báo của WB thì Việt Nam sẽ bị các tổ chức rửa tiền quốc tế chọn làm mục tiêu vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng ở nước ta còn kém phát triển, mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức còn cao. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trên con đường mở cửa kinh tế và được đánh giá là nền kinh tế có tính chất mở hàng đầu thế giới. Việc kiểm soát lỏng lẻo các dòng tiền vào ra đã tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền. Nguồn vốn FDI có thể là một kênh thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động rửa tiền. Các tổ chức phi pháp có thể tiến hành đầu tư vào nước ta với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng thực chất không phải để hoạt động mà nhằm hợp pháp hóa các khoản tiền bất hợp pháp.
Những tác động của vốn FDI đối với nền kinh tế
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT