Khái niệm về bảo hiểm xã hội
Trong mọi nền sản xuất xã hội, con người luôn là động lực chính, là trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội. Con người muốn tồn tại và phát triển, trước hết phải có ăn, mặc, ở, đi lại…Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó, họ phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người càng đầy đủ và xã hội càng văn minh hơn. Như vậy, họ là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội, đồng thời cũng là người trực tiếp tiêu dùng những sản phẩm dịch vụ đó. Nhưng thực tế không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và điều kiện sinh sống bình thường, mà trái lại có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập và các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, người lao động bất ngờ bị ốm đau hay tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp làm họ mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn; lúc về già không còn thu nhập từ lao động để đảm bảo cuộc sống; hoặc người lao động bị chết, con cái mất nơi nương tựa…Lúc này các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, thậm chí còn tăng lên và xuất hiện một số nhu cầu mới như: Cần được khám bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật cần có người chăm sóc, nuôi dưỡng…Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội phải tìm ra nhiều biện pháp khác nhau như san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước…Rõ ràng những cách đó hoàn toàn bị động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến, lúc đầu người sử dụng lao động chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu, khi không may bị ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động…Trong thực tế, các trường hợp trên có thể không xảy ra và người chủ không phải chi một khoản tiền nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ ra một khoản tiền lớn dù không muốn. Điều này tất yếu dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng gay gắt trên quy mô rộng và có tác động xấu đến nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội.
Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước đứng ra đóng vai trò trung gian trong việc điều hòa mâu thuẫn bằng cách huy động sự đóng góp cả từ phía chủ và thợ, bản thân Nhà nước cũng tham gia hỗ trợ một phần để hình thành nên một quỹ tài chính với mục đích bảo vệ quyền lợi của cả giới chủ và thợ, lúc này BHXH đã được hình thành.
Như vậy, bảo hiểm xã hội là một loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm. Năm 1850, Thủ tướng Bismack của nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) đã thiết lập hệ thống bảo hiểm xã hội ở nước này và đây là quốc gia được triển khai BHXH sớm nhất trên thế giới, đến năm 1883 Luật Bảo hiểm y tế cũng được ban hành tại nước này.
Đầu thế kỷ XX, bảo hiểm xã hội đã được triển khai ở hầu hết các nước châu Âu, sau đó là các nước Mỹ La tinh và Bắc Mỹ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, bảo hiểm xã hội đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi và vùng Caribe. Đến nay, BHXH đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới.
Tuy có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về bảo hiểm xã hội, vì tùy từng góc độ tiếp cận khác nhau mà BHXH được hiểu theo những cách khác nhau:
– Theo Giáo sư Henri Kliler thuộc trường Đại học tổng hợp tự do Bruxelles của Bỉ đã đưa ra khái niệm về BHXH và các nội dung của BHXH như sau:
BHXH là toàn bộ các luật và quy định nhằm bảo đảm cho người lao động hưởng lương (và người lao động tự do với một số hạn chế) cũng như gia đình họ (những người có quyền theo quy định) được hưởng trợ cấp khi họ ở trong hoàn cảnh hoặc mất toàn bộ hay một phần thu nhập từ lao động hoặc phát sinh những chi phí cần được hỗ trợ (như việc học hành của con cái và chăm sóc y tế) [46, tr.12].
Theo khái niệm này, BHXH sẽ bao gồm: Bảo hiểm y tế, bảo hiểm tàn tật, trợ cấp gia đình, thai sản, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm hưu trí và tử tuất, trợ cấp thất nghiệp.
– Theo Tổ chức Lao động Quốc tế: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già, chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con” [38].
– Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2006: bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH [53, tr.3].
Ngoài những khái niệm nêu trên, khi nghiên cứu về vấn đề này, từ điển và một số nhà khoa học còn đưa ra những khái niệm khác nhau về BHXH, chẳng hạn:
– Theo tập 1 Từ điển Bách khoa Việt Nam: BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất. Dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội”[46, tr.12].
– Từ góc độ pháp luật: BHXH là một chế định bảo vệ người lao động sử dụng nguồn đóng góp của mình, của người sử dụng lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người lao động được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, tai nạn lao động, hết tuổi lao động hoặc chết theo quy định của pháp luật [48, tr.49].
– Từ góc độ tài chính: “BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính giữa những người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật” [48, tr.49].
– Theo Luật BHXH Việt Nam năm 2014: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội” [54, tr.2].
Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm xã hội, mỗi khái niệm đưa ra đều đứng trên một góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, những điểm chung giống nhau là: bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội được luật hóa tùy theo điều kiện cụ thể của từng nước; người lao động tham gia BHXH và gia đình họ là những đối tượng trực tiếp được hưởng lợi từ chính sách BHXH, khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, như: Bị giảm hoặc bị mất thu nhập từ lao động do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…Để tổ chức và thực hiện được chính sách BHXH phải dựa vào một quỹ tiền tệ do người lao động, người sử dụng lao động đóng góp và có sự bảo trợ của Nhà nước; mục đích của BHXH là đảm bảo đời sống cho những người lao động tham gia BHXH và gia đình họ, từ đó góp phần đảm bảo ASXH.
Trên cơ sở phân tích và kế thừa, tác giả cho rằng: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, thông qua việc hình thành một quỹ tài chính do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ, từ đó góp phần đảm bảo ASXH”.
Khái niệm về bảo hiểm xã hội
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT
Pingback: Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện - Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ