Các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp

Phát triển sản phẩm bancassurance

Mục lục

Các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp

1. Các nhân tố bên trong

Sự tăng trưởng của doanh nghiệp: Sự tăng trưởng được đo lường thông qua tốc độ tăng tài sản hay doanh thu của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đang trong giai đoạn tăng trưởng, các nhà đầu tư có thêm niềm tin vào doanh nghiệp, khả năng tiếp cận các nguồn vốn từ bên ngoài càng lớn, trong khi doanh nghiệp đang rất cần nguồn tài trợ cho tài sản đang có xu hướng tăng lên của mình. Theo lý thuyết trật tự phân hạng (Pecking Order Theory),doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao thường có nhu cầu vốn nhiều hơn trong khi nguồn lợi nhuận giữ lại không đủ nên vốn vay sẽ được sử dụng đến. Vì vậy, sự tăng trưởng của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với hệ số nợ của doanh nghiệp.

Qui mô của doanh nghiệp: Qui mô của doanh nghiệp thể hiện qua tổng tài sản, tổng doanh thu hay số lượng công nhân viên. Doanh nghiệp có qui mô càng lớn thì khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay càng dễ hơn các doanh nghiệp có qui mô nhỏ, do đó những doanh nghiệp này có nhiều cơ hội huy động vốn từ bên ngoài hơn. Những doanh nghiệp đạt được qui mô lớn là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài, được biết đến nhiều và tạo được uy tín trên thị trường. Một qui mô doanh nghiệp lớn tương ứng với một tiềm lực tài chính vững mạnh, doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận thị trường tài chính dễ hơn các doanh nghiệp có qui mô nhỏ. Điều này đúng với những thị trường thông tin bất cân xứng (thông tin của doanh nghiệp tới nhà đầu tư thường không đầy đủ và chính xác). Theo lý thuyết cân bằng tĩnh, qui mô doanh nghiệp tỷ lệ nghịch với khả năng phá sản của doanh nghiệp, vì với qui mô lớn, các hoạt động của doanh nghiệp sẽ đa dạng hơn, khả năng phá sản giảm. Đồng thời, khi đa dạng hóa hoạt động, doanh nghiệp có ít các thu nhập bất thường, có ít các thông tin bất lợi cho doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp có thể vay nợ nhiều hơn.

Rủi ro kinh doanh: Rủi ro chính là sự chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế với lợi nhuận kỳ vọng. Rủi ro kinh doanh được đo lường thông qua độ lệch chuẩn của lợi  nhuận doanh nghiệp. Khi rủi ro kinh doanh càng lớn thì khả năng phá sản của doanh nghiệp sẽ cao hơn, niềm tin của các nhà đầu tư vào doanh nghiệp càng thấp, doanh nghiệp khó huy động vốn từ bên ngoài hơn, làm cho tỷ lệ sử dụng nợ giảm.

Hệ số vốn chủ sở hữu: Thông thường người cho vay thích các doanh nghiệp có cấu trúc vốn nghiêng về vốn chủ sở hữu hơn, vì cấu trúc này hứa hẹn sự trả nợ đúng hạn đồng vốn mà họ đã bỏ ra cho vay. Khi tỷ lệ vốn vay nợ quá cao sẽ làm giảm độ tín nhiệm của người cho vay, do đó chủ nợ sẽ không chấp nhận cho doanh nghiệp vay thêm.

Cấu trúc tài sản: Nếu doanh nghiệp có tỷ lệ tài sản cố định hữu hình lớn thì người đi vay có thể giảm được rủi ro khi cho vay, đồng nghĩa với việc giảm chi phí tài chính, vì tài sản cố định hữu hình có thể được dùng làm tài sản thế chấp khi đi vay. Việc này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có tỷ lệ tài sản cố định hữu hình trên tổng tài sản lớn thì người cho vay sẵn sàng cung cấp các khoản vay hơn và như vậy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu sẽ cao hơn.

Trình độ và thói quen sử dụng nợ của  nhà quản lý doanh nghiệp: Nếu nhà quản lý doanh nghiệp ưa thích và chấp nhận rủi ro, có trình độ quản lý tốt thì doanh nghiệp sẽ mạnh dạn sử dụng nhiều vốn vay hơn, khiến tỷ lệ nợ cao hơn. Theo lý thuyết trật tự phân hạng, thói quen của các nhà quản lý doanh nghiệp là thích tài trợ nội bộ hơn, nợ thường được ưu tiên phát hành đầu tiên và vốn cổ phần bán ra bên ngoài là sự lựa chọn cuối cùng, vì tài trợ nội bộ giúp doanh nghiệp sẽ không phải công bố thông tin và chịu sự giám sát theo luật như khi bán chứng khoán mới.

Loại hình doanh nghiệp: Sự khác biệt về hình thức sở hữu trong các loại hình doanh nghiệp sẽ bị ràng buộc bởi những qui định có tính pháp lý về tư cách pháp nhân, điều kiện hoạt động, cơ chế vận hành và mục tiêu hoạt động. Do vậy, mục đích, điều kiện và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính của mỗi loại hình doanh nghiệp là khác nhau nên cấu trúc vốn sẽ khác nhau.

Đặc điểm riêng của ngành: Cấu trúc vốn giữa các ngành công nghiệp khác nhau thì khác nhau, các ngành càng sinh lợi cao thì càng ít sử dụng nợ vay. Có một số quy luật theo kinh nghiệm mang tính truyền thống đối với cấu trúc vốn của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực. Các tiêu chuẩn liên quan cụ thể đến sản xuất, kinh doanh, bán sỉ hay bán lẻ đã phát triển một phần từ việc công bố các tỷ số bình quân cho các ngành. Nếu không đạt được các tiêu chuẩn này thì sẽ khó huy động vốn hoặc chi phí sẽ cao. Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nợ trong cấu trúc vốn có tỷ lệ nghịch với tần suất phá sản trong ngành. Các doanh nghiệp phát sinh các dòng tiền ổn định qua chu kỳ kinh doanh thường có khuynh hướng có tỷ lệ nợ cao hơn. Hiện nay, các doanh nghiệp có khuynh hướng tập trung sát tỷ lệ nợ của ngành, có thể phản ánh phần lớn rủi ro kinh doanh mà một doanh nghiệp gặp phải là do ngành hoạt động ấn định.

Mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên tổng tài sản (BEP) với lãi suất huy động: Nếu doanh nghiệp có BEP lớn hơn lãi suất huy động vốn thì đây sẽ là cơ hội cho doanh nghiệp gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Do đó, khi có nhu cầu vốn người ta thường quyết định cấu trúc vốn theo hướng sử dụng đòn bẩy tài chính lớn hơn [34].

Đòn bẩy kinh doanh: Đòn bẩy kinh doanh phản ánh mức độ sử dụng chi phí cố định kinh doanh trong tổng chi phí trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn chung các doanh nghiệp có đòn bẩy kinh doanh thấp thường cho phép doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ vay hơn, bởi lẽ các doanh nghiệp này cần ít vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định hơn so với doanh nghiệp có đòn bẩy kinh doanh cao [34].

Chu kì sống và giai đoạn phát triển của doanh nghiệp: Sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp thường có tính qui luật nhất định trong vòng đời kinh doanh của nó, đó là các giai đoạn: Hình thành, tăng trưởng, phát triển ổn định và suy thoái. Mỗi doanh nghiệp cần tùy thuộc vào giai đoạn phát triển của mình mà có quyết định tổ chức cấu trúc vốn hợp lý, đảm bảo tính hiệu quả và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh. Thông thường thì những doanh nghiệp ở giai đoạn hình thành thường có tỷ trọng nợ vay thấp, sau đó tăng dần ở giai đoạn tăng trưởng và phát triển, những giai đoạn suy thoái thường giảm dần tỷ trọng nợ trong cấu trúc vốn [34].

Quyền kiểm soát doanh nghiệp: Các doanh nghiệp mới thành lập hoặc coi trọng quyền kiểm soát doanh nghiệp sẽ rất thận trọng trong việc phát hành thêm cổ phiếu mới ra công chúng để huy động thêm vốn. Ngược lại các doanh nghiệp đã hoạt động ổn định, không ngại chia sẻ quyền kiểm soát sẽ mạnh dạn hơn trong việc huy động vốn cổ phần mới trên thị trường [34].

Khả năng sinh lời: Hiện nay chưa có sự thống nhất giữa các lý thuyết về mối quan hệ giữa khả năng sinh lời và mức độ sử dụng nợ trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Theo lý thuyết trật tự phân hạng thì các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp thích tài trợ cho các dự án bằng nguồn vốn từ nội sinh hơn sau đó mới đến nguồn vốn ngoại sinh. Ngoài ra các doanh nghiệp có lợi nhuận cao không thích huy động thêm vốn chủ sở hữu nhằm tránh việc pha loãng quyền sở hữu. Điều này cũng có nghĩa là các doanh nghiệp có mức sinh lời cao sẽ có tỷ lệ nợ vay thấp. Tuy nhiên theo cách tiếp cận của lý thuyết đánh đổi (lý thuyết tĩnh), khi các doanh nghiệp có mức sinh lời cao, họ thích sử dụng nợ vay vì các yếu tố khác không đổi họ sẽ tận dụng được lá chắn thuế nhiều hơn. Khả năng sinh lời được đo bằng chỉ tiêu tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (BEP) [34].

Khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán có thể ảnh hưởng khác nhau đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Thứ nhất, các doanh nghiệp có khả năng thanh toán cao hơn có thể đảm bảo hệ số nợ cao hơn do doanh nghiệp có khả năng tốt hơn trong việc đáp ứng các nghĩa vụ nợ đến hạn. Điều này chỉ ra mối quan hệ dương giữa khả năng thanh toán và cấu trúc vốn. Mặt khác, doanh nghiệp với các tài sản có tính thanh khoản cao hơn có thể sử dụng những tài sản này để tài trợ cho các dự án đầu tư [34].

2. Các nhân tố bên ngoài

GDP đầu người: Chỉ tiêu GDP đầu người là chỉ tiêu đặc trưng nhất để chỉ ra sự khác nhau về sự giàu có của các quốc gia. Khi các quốc gia trở nên giàu có hơn thì nguồn tài chính cũng dồi dào hơn, từ đó doanh nghiệp có thể tăng thêm cơ hội vay vốn từ bên ngoài. Như vậy, GDP đầu người có quan hệ tỷ lệ thuận với tỷ lệ sử dụng nợ của doanh nghiệp.

Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế: Tăng trưởng kinh tế là một biểu hiện cho các cơ hội đầu tư mới của doanh nghiệp, nó là thước đo cơ hội phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn thì các doanh nghiệp muốn đầu tư nhiều hơn để tăng lợi nhuận, vì vậy nó làm tăng tỷ lệ nợ trong doanh nghiệp.

Tỷ lệ lạm phát: Tỷ lệ lạm phát thể hiện khả năng quản lý của Chính phủ đối với nền kinh tế, nó cũng biểu hiện sự ổn định của đồng nội tệ, những quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao đồng nghĩa với việc quốc gia đó đang có sự bất ổn lớn. Khi tỷ lệ lạm phát tăng cao thì việc cấp tín dụng của người cho vay gặp rủi ro cao hơn, họ có xu hướng hạn chế cho vay ra bên ngoài, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động nguồn vốn vay. Do đó, tỷ lệ lạm phát tăng làm tỷ lệ sử dụng nợ của doanh nghiệp giảm.

Lãi suất: Nếu lãi suất tăng thì doanh nghiệp không muốn dùng vốn vay vì chi phí sử dụng vốn vay tăng. Lãi suất vay vốn có quan hệ tỷ lệ nghịch với tỷ lệ nợ của doanh nghiệp.

Thuế: Được đo lường bằng khoản thuế doanh nghiệp phải nộp trên thu nhập trước lãi vay và thuế. Trong trường hợp doanh nghiệp sử dụng nợ thì phải trả một khoản chi phí cho số lãi vay đó. Theo lý thuyết cân bằng tĩnh (Static Trade – off Theory), các doanh nghiệp thích tài trợ bằng vốn vay vì khi sử dụng vốn vay thì lãi vay phải trả được coi là một khoản chi phí hợp lý và được trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp, do đó công ty phải nộp thuế thu nhập ít hơn so với trường hợp sử dụng tài trợ hoàn toàn bằng vốn chủ sở hữu. Khoản thuế công ty phải nộp sẽ ít hơn, đó là “lá chắn thuế” cho doanh nghiệp. Vì vậy, khi thuế suất tăng càng cao thì doanh nghiệp càng muốn vay nhiều hơn, dẫn đến tỷ lệ nợ cao hơn.

Ngoài các nhân tố vĩ mô kể trên, các chính sách vĩ mô khác như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ… cũng góp phần ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Ví dụ như khi thị trường tài chính phát triển, các công cụ tài chính dồi dào sẽ tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp cải thiện cấu trúc vốn theo chiều hướng mong muốn của doanh nghiệp; hay khi Nhà nước áp dụng các chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc mở rộng (vấn đề lãi suất chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc…) cũng tác động rất lớn đến khả năng huy động nợ và chi phí nợ của các doanh nghiệp.

Các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?