Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 là văn bản pháp lý mang tính toàn diện, triệt để và sâu sắc. Văn bản này đã tác động mạnh mẽ đến giáo dục đại học trên cả nước. Trong dòng chảy chung của đổi mới giáo dục đại học ở nước ta, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học và cao học thư viện-thông tin càng trở nên bức thiết.
Hiện nay số lượng thí sinh đăng ký thi vào ngành thư viện-thông tin (TV-TT) bậc đại học cũng như chỉ tiêu tuyển sinh bậc đại học TV-TT vào các hệ đào tạo chính quy, hệ vừa làm vừa học, hệ hoàn chỉnh kiến thức TV-TT tăng lên hàng năm. Bậc cao học TV-TT bắt đầu thu hút không chỉ số cử nhân đã có thâm niên công tác mà cả các cử nhân mới ra trường. Số lượng các trường tham gia vào việc đào tạo nguồn nhân lực thư viện-thông tin bậc đại học, cao đẳng hệ chính qui cũng ngày càng nhiều. Tính đến năm học 2008-2009 có 54 trường. Ngoài các trường có truyền thống đào tạo lâu năm như Đại học KHXH&NV Hà Nội, Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học KHXH&NV TP. HCM, Đại học Văn hóa TP. HCM, xuất hiện hàng loạt các trường đại học và cao đẳng khác tuyển sinh ngành thư viện-thông tin/thông tin-thư viện, trong đó có cả trường dân lập, tư thục. Đây là tín hiệu vui cho ngành TV-TT và chứng tỏ nhu cầu của xã hội đối với nguồn nhân lực TV-TT có xu hướng tăng cao (Xem bảng 1 và bảng 2 ở cuối bài).
Trong những năm gần đây, quyết tâm đổi mới để nâng cao chất lượng đào tạo của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các trường, các khoa đào tạo nguồn nhân lực TV-TT khá rõ ràng, thể hiện ở những thay đổi về nội dung chương trình đào tạo, về đổi mới phương pháp giảng dạy của đội ngũ giảng viên; đã có khá nhiều hội thảo khoa học về vấn đề này được tổ chức tại các trường ĐH KHXH&NV Hà Nội, ĐH KHXH&NV TP. HCM, Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Văn hóa TP. HCM. Việc đổi mới nhìn chung đều đi theo hướng chương trình đạt chuẩn quốc tế, nội dung liên thông, cập nhật, cắt bỏ những phần trùng lặp, tăng các môn học tự chọn, giảm thời gian lên lớp, tăng giờ thực hành, giờ tự học, phương pháp giảng dạy lấy người học là trung tâm, chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang tín chỉ…
Tuy nhiên, cho đến nay bài toán về chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn khá nan giải, nguồn nhân lực tuy bước đầu đã được nâng cấp nhưng còn xa mới có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh và hội nhập quốc tế. Các điểm yếu tổng thể mang tính dài hạn của thực lực nguồn nhân lực cần phải giải quyết trong đào tạo và đào tạo lại là: chưa làm chủ được công nghệ, kỹ năng chuyên nghiệp yếu, thiếu tư duy sáng tạo; các điểm yếu cụ thể mang tính thời đoạn là: chưa dấn thân thật sự vào công việc, năng suất lao động thấp, quan cách trong phục vụ, thụ động trong công việc.
Mặc dù cho đến nay chưa có một cuộc điều tra chính thức nào được công bố về việc chất lượng đào tạo đã cải thiện được bao nhiêu sau những năm đổi mới nội dung, chương trình đào tạo nhưng tất cả các giảng viên đều biết rõ rằng chất lượng đào tạo của ngành còn thấp do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan.
Trước tình hình trên, các trường, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngành TV-TT cần nhận diện đúng tương quan giữa một bên là thực lực về đội ngũ giảng viên, về nguồn tài chính, về cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ đào tạo (trong đó có cơ sở hạ tầng thông tin), về nguồn tuyển sinh, phương thức tuyển sinh, một bên là cơ hội và thách thức mới mà quá trình hội nhập sự nghiệp thư viện thế giới mang lại để xác định triển vọng phát triển và họach định chiến lược phát triển đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu mới của xã hội về xây dựng và phát triển các loại thư viện hiện đại.
Mức độ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và được đẩy mạnh, công cuộc hiện đại hóa sự nghiệp thư viện đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao. Công tác đào tạo phải xuất phát từ nhu cầu thực tế, đáp ứng được ngay những vấn đề mà việc chuyển đổi các thư viện truyền thống thành thư viện hiện đại đang đặt ra. Các trường, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực TV-TT trên cả nước cần nghiêm túc khảo cứu xem xét, phân tích chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng và cao học của mình đã đáp ứng yêu cầu của xã hội ở mức độ nào, những đổi mới về nội dung chương trình đào tạo, về phương pháp giảng dạy đã đưa lại những kết quả gì? Các cử nhân khoa học TV-TT, các thạc sĩ TV-TT được đào tạo ra hàng năm hiện nay đã có được những kiến thức và kỹ năng cần và đủ để chuyển đổi các thư viện truyền thống thành thư viện hiện đại, xây dựng các thư viện đa phương tiện, thư viện điện tử/thư viện số chưa?; Tại sao phần lớn sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng được tuyển dụng vào các thư viện làm việc đều phải đi học tiếp tục các lớp ngoại ngữ, tin học, huấn luyện ngắn hạn nghiệp vụ thì mới có thể làm việc tốt được?. Tại sao đã 17 năm đào tạo bậc thạc sĩ ở Việt Nam, cộng với gần 60 thạc sĩ được đào tạo ở nước ngoài về mà số lượng các thạc sĩ có thể thật sự làm công tác nghiên cứu khoa học và tham gia giảng dạy các môn học chuyên ngành đạt chất lượng cao lại ít như vậy? Phải làm gì để giải bài toán chất lượng đào tạo có lẽ là sự trăn trở chung của nhiều thế hệ lãnh đạo các khoa TV-TT trong các trường ĐH KHXH&NV, Đại học Văn hóa ở Hà Nội, TP. HCM…
Thực tiễn đã chứng minh rằng muốn nâng cao chất lượng đào tạo, đào tạo đạt chuẩn phải gắn kết hữu cơ giữa giảng dạy với nghiên cứu khoa học. Sản phẩm chính về nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên là các bài báo, báo cáo khoa học, sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình, nhưng rất tiếc rằng tỷ lệ loại sản phẩm này ở ngành TV-TT là rất thấp so với các ngành đào tạo khác. Phần lớn các giảng viên có tinh thần trách nhiệm cao cũng chỉ dừng lại ở việc cập nhật bài giảng chứ ít đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, xuất bản giáo trình, sách chuyên khảo, chính vì vậy việc giảng dạy khó lòng đạt chất lượng cao được.
Cho đến nay đội ngũ giảng viên ngành TV-TT vẫn tiếp tục đối mặt với sự khắc nghiệt của thị trường: nếu tập trung sức lực làm nghiên cứu thì sẽ bảo đảm chất lượng giảng dạy nhưng không bảo đảm chất lượng cuộc sống tối thiểu; nếu lo đi dạy để kiếm sống thì chắc chắn sức lực làm nghiên cứu sẽ giảm nghiêm trọng. Trong khi “chất xám trẻ” chưa kịp bồi đắp đã phải mải mê lo bươn trải kiếm sống, “chất xám già” thì sử dụng hết công suất vào việc đi dạy, lẽ tất nhiên trong rất nhiều hội nghị, hội thảo khoa học đặc biệt là hội nghị khoa học trẻ (được tổ chức hàng năm) chất lượng bài báo cáo không cao mà vẫn “thông cảm” cho nhau qua; chất lượng nhiều luận văn thạc sĩ còn thấp so với yêu cầu, nhưng điểm vẫn được Hội đồng cho toàn 9 trở lên. Chưa biết vài năm tới đây với các luận án tiến sĩ trong nước của ngành sẽ được bảo vệ có bảo đảm đúng nghĩa của tính mới, tính khả thi không hay tình trạng “chưa đạt chất lượng cao” này vẫn có thể tiếp diễn?
Để bảo đảm, nâng cao chất lượng đào tạo đại học và cao học TV-TT trong không gian phát triển mới cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau trong đó:
Biện pháp thứ nhất là củng cố, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên là biện pháp cần ưu tiên hàng đầu. Thực hiện tích cực biện pháp này chúng ta mới có thể kỳ vọng việc đào tạo của ngành TV-TT sẽ thật sự bước vào lộ trình đào tạo theo chương trình tiên tiến như một số ngành đang làm thí điểm hiện nay (nhập khẩu về qui trình, kế họach đào tạo, quy định học cụ, quản lý đào tạo, giảng dạy bằng tiếng Anh,…). Muốn có một chương trình tiên tiến đòi hỏi phải có đội ngũ giảng viên tiên tiến, phải có phương pháp giảng dạy tiên tiến, phương pháp học tiên tiến.
Các khoa TV-TT/TT-TV không nên chỉ dừng lại ở các bản kế hoạch phát triển đội ngũ giảng viên hàng năm mà cần xây dựng chiến lược dài hạn về phát triển đội ngũ giảng viên cơ hữu, đưa ra các chính sách cụ thể đào tạo, thu hút đội ngũ giảng viên trên cơ sở số lượng, chất lượng hiện có, dự tính số lượng nghỉ hưu, chuyển công tác, dự tính đào tạo trong nước và nước ngoài, nguồn tuyển dụng, đề ra các giải pháp và bước đi thích hợp, lộ trình, thời gian, cách thức thực hiện, bắt buộc các giảng viên phải nâng cao trình độ bằng cách nghiên cứu khoa học nghiêm túc thật sự chứ không phải để đối phó, mang tính hình thức.
Các khoa TV-TT/TT-TV nên có chính sách sử dụng các thạc sĩ TV-TT đang làm việc tại các thư viện (nơi sinh viên sẽ thực tập tốt nghiệp) làm giảng viên dạy phần thực hành các môn học kỹ thuật nghiệp vụ đòi hỏi số giờ thực hành nhiều như Biên mục mô tả; Biên mục chủ đề; Phân loại tài liệu; MARC21; Tổ chức kho tài liệu; Bảo quản tài liệu; Tra cứu thông tin; Định từ khóa; Phương pháp làm tóm tắt, chú giải, tổng luận; Dịch vụ thông tin-thư viện; Thư viện số; Phần mềm quản trị thư viện tích hợp, biên soạn thư mục, v.v…. Các thạc sĩ sẽ giảng dạy phần thực hành theo yêu cầu do giảng viên dạy lý thuyết đặt ra. Làm được điều này có 5 ích lợi:
1. Đối với giảng viên cơ hữu của khoa: việc đứng lớp giảng dạy lý thuyết đòi hỏi giảng viên phải được đào tạo bài bản, có phương pháp sư phạm tốt, tích cực nghiên cứu khoa học, cần nhiều thời gian để đầu tư chiều sâu về lý thuyết cho môn học mình giảng dạy. Nếu được giảm tải số giờ dạy thực hành giảng viên sẽ có thời gian để đầu tư thêm cho các hướng nghiên cứu mới, viết giáo trình, tham gia vào các công trình nghiên cứu khoa học, hướng vào những môn học mới đang thiếu hụt người đảm nhiệm hoặc đang phải mời thỉnh giảng.
2. Tạo điều kiện cho các thạc sĩ TV-TT tham gia vào công tác đào tạo từ công việc quen thuộc hàng ngày của họ, tận dụng những kinh nghiệm thực tiễn họ đã tích lũy trong nhiều năm, mang lại cho sinh viên những kiến thức thực tế bổ ích. Đội ngũ thạc sĩ TV-TT sẽ có trách nhiệm hơn với chính công việc họ đang đảm nhiệm vì phải hướng dẫn người khác trở thành người thạo việc giống mình, phải tự suy nghĩ, tìm tòi phương án, các cách thức khác nhau để đáp ứng yêu cầu của giảng viên dạy lý thuyết và để có thể trả lời được các câu hỏi khác nhau của sinh viên trong mọi tình huống phong phú, đa dạng của thực tiễn.
3. Tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa khoa và các cơ sở thực tập; có thể lựa chọn, thu hút được những thạc sĩ có năng lực tham gia vào công tác đào tạo phần thực hành. Thực tế hiện nay tại các thư viện đã và đang xây dựng thư viện điện tử/thư viện số, thư viện đa phương tiện đều phải mở các lớp huấn luyện đào tạo người dùng tin trong đó các thạc sĩ chính là lực lượng chủ chốt tham gia đào tạo người dùng. Trong trường hợp lựa chọn được những thạc sĩ có thể tham gia giảng dạy không chỉ phần thực hành mà cả phần lý thuyết, khoa sẽ yêu cầu họ đi học về lý luận dạy đại học để bảo đảm về mặt sư phạm.
4. Việc tham gia giảng dạy phần thực hành sẽ tạo ra hứng thú và cơ hội cho các thạc sĩ, hướng những người có khả năng thực sự vươn lên đến tầm cao hơn, tạo ra nguồn tuyển nghiên cứu sinh trong và ngoài nước hoặc tạo ra cơ hội hợp tác giữa giảng viên với cán bộ thư viện khi thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học, gắn kết chặt chẽ lý thuyết với thực tiễn.
5. Các thạc sĩ TV-TT sẽ được tăng thêm thu nhập chính đáng và thúc đẩy họ học hỏi sâu hơn về lý thuyết, dấn thân hơn cho nghề nghiệp.
Biện pháp quan trọng thứ hai để bảo đảm, nâng cao chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng, sau đại học ngành TV-TT chính là phải gắn chặt việc thay đổi phương pháp giảng dạy của giảng viên với thay đổi phương pháp học của sinh viên, học viên cao học.
Một thuận lợi lớn hiện nay hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện biện pháp này chính là Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/08/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ áp dụng đại trà tại các trường đại học, cao đẳng từ năm học 2007-2008. Học chế này đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải thay đổi hoàn toàn phương pháp giảng dạy, đầu tư rất nhiều công sức cho việc soạn bài giảng, giới thiệu chi tiết tài liệu cần đọc, chú trọng rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng truyền đạt, các kỹ năng về công tác thông tin cho sinh viên, hướng dẫn họ thảo luận, nghiên cứu khoa học; sinh viên phải thay đổi hoàn toàn phương pháp học, phải tham gia học tập với thái độ tích cực, chủ động tìm kiếm và tham khảo các tài liệu thích hợp với từng môn học, từng chuyên đề khác nhau để đạt yêu cầu của mỗi tín chỉ. Sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu là chính với sự tư vấn của cố vấn học tập và sự định hướng của từng giảng viên các môn học.
Một trong những khó khăn hiện nay của giảng viên là việc thay đổi phương pháp dạy chưa song hành với sự thay đổi phương pháp học của số lượng khá đông sinh viên. Theo học chế tín chỉ, các môn học cơ sở và chuyên ngành được học ngay từ năm thứ nhất cùng với các môn học chung trong bối cảnh tỷ lệ sinh viên thích nghi nhanh với cách học mới không cao, phần lớn sinh viên vẫn học theo kiểu đối phó, đến lúc thi mới học. Muốn bảo đảm chất lượng giảng viên sẽ phải cố gắng rất nhiều để buộc sinh viên phải học tập nghiêm túc, đôi lúc phải chịu đựng sự kêu ca của sinh viên về việc phải tham khảo “quá nhiều” tài liệu, bị “quá tải” về các thông tin phải xử lý, tốc độ thuyết trình chậm do khả năng phân tích, tổng hợp tài liệu của sinh viên còn yếu v.v…. Giảng viên phải giúp người học về kỹ năng phân tích, tổng hợp, lọc tin, kỹ năng cô đặc thông tin khi thuyết trình trước lớp, cách thức nắm vững được các kiến thức cơ bản cần thiết ngay trong giờ học. Công việc này thường làm mất nhiều thời gian của giảng viên vì phải giao dịch qua thư điện tử và tiếp sinh viên ngoài giờ lên lớp, sửa chữa các bài tập trên lớp… Việc huấn luyện các kỹ năng nghề nghiệp thường đòi hỏi độ kiên nhẫn cao ở người dạy và ý chí, tính tự giác ở người học.
Phương pháp học của sinh viên sẽ thay đổi khi họ nhận ra rằng nếu không thay đổi họ không thể thi qua được môn học đó, nếu không thay đổi họ sẽ không thể trả hết số tín chỉ họ đã đăng ký, nếu cứ tiếp tục duy trì cách học theo kiểu đối phó thì cho dù có trong tay tấm bằng cử nhân nhưng họ sẽ phải trả giá. Cái giá này sẽ là bằng cấp không tương xứng với kiến thức cần có và trong quá trình làm việc sẽ phải tốn rất nhiều thời gian để bù đắp lỗ hổng kiến thức, bổ sung các kỹ năng nghề nghiệp còn thiếu cho chính mình và công việc phải đảm nhiệm tại các thư viện/cơ quan thông tin, đặc biệt trong môi trường thông tin điện tử.
Riêng đối với học viên cao học, tình trạng nhiều học viên vừa học, vừa làm là chủ yếu nên cũng phổ biến hiện tượng đề nghị giảng viên thông cảm cho hoàn cảnh vất vả của họ để “nới tay” khi thi cử hoặc giảm số lượng bài tập, hạ thấp yêu cầu khi viết luận văn… Trong khi đó với bậc cao học, giảng viên các môn học cần phải đề ra các yêu cầu cao với các bài tập phải thực hiện, cần phải xử lý nghiêm khắc các trường hợp đạo văn khi viết tiểu luận. Các PGS, TS chịu trách nhiệm hướng dẫn cần kiên quyết đề nghị chưa cho bảo vệ đối với các trường hợp luận văn chưa đạt các yêu cầu cần thiết, nhất là đối với những học viên đã hết thời hạn quy định, thường lấy lý do này để làm “áp lực”, đề nghị “thầy thông cảm” và sau đó là Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ “thông cảm”.
Các Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ cần cải tiến cách cho điểm hiện nay để đánh giá chính xác hơn trình độ của các thạc sĩ, phân lọai rõ ràng giữa các luận văn đạt xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, để giúp các thạc sĩ không “ảo tưởng” về trình độ học vấn của họ, đánh giá đúng thực lực của mình về mặt khoa học và thực tiễn. Điều này hết sức cần thiết với trình độ thạc sĩ, đặc biệt đối với những người đang ở vị trí cán bộ quản lý và ở trong diện quy hoạch của các thư viện/cơ quan thông tin. Việc đánh giá chính xác của Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ sẽ giúp các thạc sĩ tự lượng sức mình có nên theo đuổi việc hoàn thiện học vấn bằng con đường khoa học cam go hay không (học tiếp lên bậc tiến sĩ) hay chỉ nên dừng ở bậc học này và theo học các khóa tu nghiệp ngắn hạn để cập nhật kiến thức. Bên cạnh đó việc cải tiến cách cho điểm sẽ phản ánh đúng thực chất chất lượng đào tạo bậc thạc sĩ hiện nay tại các trường ĐH KHXH&NV, Đại học Văn hóa ở Hà Nội, TP HCM, không thể kéo dài mãi tình trạng đầu vào, đầu ra của bậc cao học gần như bằng nhau và chỉ có thạc sĩ từ điểm giỏi trở lên trong khi trường nào cũng mong muốn bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo bậc cao học.
Biện pháp thứ ba không thể thiếu để bảo đảm, nâng cao chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng, sau đại học ngành TV-TT là tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học, giảng dạy của thầy và học tập của trò.
Hiện nay tại Hà Nội, TP. HCM phần lớn giảng viên đều đã sử dụng thiết bị máy móc để giảng dạy và sinh viên cũng đã quen với việc học bằng máy. Tuy nhiên nếu giảng viên không tạo ra sự khác biệt giữa nội dung bài giảng được chiếu lên màn hình với nội dung giáo trình, tài liệu tham khảo thì sức thu hút của buổi lên lớp sẽ rất thấp. Ở các lớp không điểm danh, hiện tượng sinh viên, học viên cao học bỏ tiết do những nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân nội dung bài giảng chính là nội dung giống hệt trong giáo trình, tài liệu tham khảo, việc giảng dạy của giảng viên phụ thuộc vào các slide trình chiếu. Vì vậy việc tóm tắt nội dung, nhấn mạnh những điểm quan trọng nhất và sự phát triển mở rộng kiến thức trên lớp của người thầy là không thể thiếu để sinh viên nhận thấy rằng tự đọc giáo trình, tài liệu tham khảo sẽ không đủ, phải đến lớp dự giờ giảng, phải vào thư viện đọc tài liệu tham khảo và ghi chép lại thì mới có kết quả học tập cao.
Để có một tiết học hấp dẫn việc chuẩn bị bài giảng của giảng viên phải công phu hơn, mất nhiều thời gian, công sức. Như vậy việc tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại phục vụ cho việc đào tạo của nhà trường phải đi đôi với tinh thần trách nhiệm cao của người giảng viên và tính tự giác cao của người học.
Tại các lớp mở ở nhiều địa phương do điều kiện cơ sở vật chất yếu kém sinh viên phải học trong tình trạng học chay, thiếu tài liệu tham khảo, học dồn các ngày liên tục, sinh viên làm bài tập thầy chấm chứ không có thời gian sửa nên sinh viên cũng không biết mình sai ở chỗ nào, trình tự các môn học nhiều lúc không thể theo đúng chương trình v.v… Trong tình hình đó chất lượng đào tạo thấp là điều khó tránh khỏi. Muốn nâng cao chất lượng các lớp ở địa phương cần phải mời được những thầy cô dày dặn kinh nghiệm giảng dạy, biết rõ với đối tượng nào thì nên áp dụng phương pháp nào, họ cần những kiến thức và kỹ năng gì trong môn học đó, ở mức độ nào thì phù hợp, phải liên hệ với địa chỉ nào thì sinh viên có thể làm bài tập thực hành tốt. Bên cạnh đó cần bắt buộc sinh viên vào mạng Internet để lấy thông tin phục vụ cho học tập và hướng dẫn sinh viên kỹ năng làm việc nhóm có hiệu quả.
Biện pháp thứ tư cần đẩy mạnh để bảo đảm, nâng cao chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng, sau đại học ngành TV-TT là các khoa TV-TT/TT-TV phải tổ chức triển khai việc đánh giá chất lượng giảng viên, tăng cường dự giờ giảng viên trẻ, tổ chức cho sinh viên đánh giá chất lượng từng môn học thông qua các phiếu điều tra và phỏng vấn.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng, sau đại học TV-TT chắc chắn rằng sẽ còn là vấn đề bức xúc trong bối cảnh chung của giáo dục đại học Việt Nam. Giải quyết bài toán chất lượng đào tạo nguồn nhân lực TV-TT đòi hỏi phải có thời gian, không thể ngày một, ngày hai mà là một quá trình chuyển động tích cực của các trường, các cơ sở đào tạo. Một vài biện pháp nhỏ nêu trên nếu tiến hành đồng bộ và quyết liệt cùng với nhiều biện pháp khác mà các trường đang áp dụng sẽ góp phần thúc đẩy quá trình chuyển động này nhanh hơn, mạnh hơn trong thực tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/08/2007 của Bộ Giáo dục & Đào tạo ban hành Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ.
2. Ngành thông tin-thư viện trong xã hội thông tin//Kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm 33 năm đào tạo của ngành và 10 năm trở thành đơn vị độc lập của trường ĐHKHXH&NV.- H.: Đại học quốc gia Hà Nội, 2006. – 391 tr.
3. Những điều cần biết về tuyển sinh đại học và cao đẳng năm 2006, 2007, 2008.- H.: Nhà xuất bản Giáo dục, 2006, 2007, 2008.
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT