Mục lục
Hoạt động của ngân hàng thương mại
Để mô tả hoạt động của ngân hàng thương mại, có thể sử dụng một số các tiêu chí phân loại, nhìn nhận hoạt động của ngân hàng thương mại dưới các góc độ khác nhau. Trong đó, có ba tiêu chí rất quan trọng là bản chất kinh tế; tính hệ thống và công nghệ.
1. Theo bản chất kinh tế
Là một tổ chức kinh tế hoạt động vì mục tiêu kinh doanh, lấy lợi nhuận làm động lực, hoạt động của ngân hàng thương mại, cũng như bất cứ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào khác, bao gồm 3 mảng chính: hoạt động tạo lập nguồn vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động khác.
Tạo lập nguồn vốn: Nguồn vốn của một ngân hàng thương mại bao gồm: vốn chủ sở hữu, tiền gửi của KH, tiền vay, vốn uỷ thác và một số nguồn vốn nợ từ bên ngoài khác. Vốn chủ sở hữu luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Tuy thường chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại là cơ sở để hình thành nên một ngân hàng và luôn đóng vai trò là tấm đệm, chống đỡ cho mọi khó khăn, rủi ro mà ngân hàng phải chịu đựng trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nếu ngân hàng hoạt động kinh doanh tạo ra nhiều lợi nhuận, tấm đệm vốn chủ sở hữu sẽ nở nhanh, với tốc độ lớn gấp nhiều lần so với sự gia tăng tài sản trên vốn nợ. Ngược lại, mọi khó khăn tổn thất trong hoạt động của ngân hàng đều trông chờ vào khả năng gánh vác của tấm đệm này.
Phần lớn nguồn vốn của ngân hàng thương mại là nợ, trong đó chủ yếu là tiền gửi. Ngân hàng thương mại luôn coi tiền gửi là nguồn vốn chiến lược trong các hoạt động. KH gửi tiền vào ngân hàng thường nhằm tới hai mục đích: tiết kiệm và thanh toán. Nhìn chung, hai mục đích này mâu thuẫn nhau. Bởi vậy, một khoản tiền gửi vào ngân hàng luôn gắn với một mục đích cụ thể. Để thu hút được nhiều tiền gửi, ngân hàng thương mại tìm nhiều cách thiết kế các sản phẩm tiền gửi (hoặc các sản phẩm tương đương) linh hoạt, phong phú và đa dạng về kỳ hạn, quy mô, loại tiền, phương thức trả lãi, lãi suất và nhiều đặc tính kèm theo.
Trong khi tiền gửi đã chiếm một tỷ trọng rất lớn trong vốn nợ cũng như tổng nguồn của ngân hàng, tiền vay lại có một vai trò riêng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tiền tệ ngắn hạn và dự trữ đáp ứng khả năng thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng thương mại thường vay tiền của ngân hàng trung ương thông qua kênh tái chiết khấu và các ngân hàng thương mại (hoặc tổ chức tín dụng nói chung) khác thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Khả năng vay được của ngân hàng tác động đến lượng dự trữ được ngân hàng nắm giữ để đáp ứng khả năng thanh toán.
Sử dụng vốn: Ban đầu, hầu hết tài sản của ngân hàng thương mại có hình thái vật chất là tiền. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu kinh doanh, sinh lời, ngân hàng đã sử dụng vốn để tạo nên 3 khối tài sản: dự trữ đáp ứng khả năng thanh toán, tài sản sinh lời, và tài sản để duy trì hoạt động.
Dự trữ là khối tài sản có tính thanh khoản cao nhất, được ngân hàng thương mại nắm giữ với mục tiêu chính là đáp ứng khả năng thanh toán. Dự trữ của ngân hàng thương mại bao gồm tiền và các tài sản tương đương tiền, kim loại quý, đá quý, chứng khoán chính phủ có kỳ đáo hạn thực tế ngắn hạn. Lượng ngoại tệ và vàng trong danh mục dự trữ là một trong những căn cứ để xác định trạng thái ngoại hối của ngân hàng. Hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được thể hiện đầy đủ trong cả việc kinh doanh ngoại hối và huy động vốn rồi cho vay. Trên giác độ quản lý, không phải bất cứ lúc nào kim loại quý, đá quý… cũng được ngân hàng thương mại nắm giữ như tài sản để đáp ứng khả năng thanh toán nhanh nhất. Trong một số hoàn cảnh nhất định, loại tài sản này lại có thể được giữ để đầu cơ với mục đích sinh lời.
Trong tài sản của ngân hàng, tài sản sinh lời luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất, và đây cũng là khối tài sản có kết cấu đa dạng, phong phú và phức tạp nhất. Tài sản sinh lời của ngân hàng thương mại bao gồm các khoản tín dụng, chứng khoán kinh doanh và chứng khoán đầu tư. Đối với một số quốc gia cho phép các ngân hàng thương mại được kinh doanh bất động sản, tài sản sinh lời của ngân hàng có thể còn bao gồm cả bất động sản đầu tư. Khối tài sản sinh lời hứa hẹn đem lại cho ngân hàng các khoản thu nhập từ lãi, cổ tức, sự tăng giá của chính tài sản; đồng thời cũng chứa đựng rủi ro do KH không trả đủ lãi, gốc của các khoản tín dụng, mất giá chứng khoán…
[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm : Chiến lược phát triển các ngân hàng nông nghiệp trong khu vực[/message]Hầu hết tài sản cố định hữu hình (bao gồm nhà, kho bãi, máy móc thiết bị,…) và tài sản cố định vô hình được nắm giữ với mục tiêu duy trì hoạt động của ngân hàng. Với đặc điểm giao dịch cao, phục vụ KH nhanh nhất và tốt nhất, khối tài sản đảm bảo duy trì hoạt động của ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng. Trong điều kiện các ngân hàng cạnh tranh gay gắt về kỹ thuật nghiệp vụ, tài sản để duy trì hoạt động của ngân hàng quyết định giá trị công nghệ ngân hàng trên cả phương diện tác nghiệp và thông tin quản lý. Thông thường, ngân hàng phải đánh đổi giữa chi phí cho công nghệ và tầm vóc của công nghệ.
Các hoạt động khác: Mặc dù hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán thể hiện ngay trong cách ngân hàng huy động và sử dụng vốn. Tuy nhiên, khi đề cập tới các hoạt động khác của ngân hàng, thanh toán luôn là hoạt động được nhấn mạnh lại, bởi tầm quan trọng và giá trị lớn lao của nó đối với bản thân ngân hàng và cả nền kinh tế. Ngày nay, tỷ trọng thu nhập từ hoạt động thanh toán nói riêng và từ các hoạt động dịch vụ của ngân hàng nói chung đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển theo chiều sâu của một ngân hàng thương mại. Nếu nền kinh tế là một cơ thể sống, thì hoạt động thanh toán, trong đó phần lớn là thanh toán qua ngân hàng, được coi như hệ thống huyết mạch, luôn có chức năng tưới máu đều đặn nuôi sống cơ thể. Hoạt động thanh toán của ngân hàng thương mại có thể được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh. Theo phạm vi địa lý, thanh toán qua ngân hàng bao gồm thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế với sự phân biệt tương đối rạch ròi về đối tượng KH, sản phẩm, và phương thức tổ chức hoạt động. Từ bên ngoài, KH quan tâm đến những dịch vụ thanh toán mà ngân hàng có thể cung cấp cho các KH. Đối với bản thân ngân hàng, để phục vụ yêu cầu thanh toán của KH, vấn đề quan trọng là hệ thống thiết bị và phương thức quản lý, tổ chức thanh toán trong một hệ thống ngân hàng thương mại (thanh toán liên hàng) và giữa các ngân hàng (thanh toán liên ngân hàng).
Bên cạnh các dịch vụ thanh toán, ngân hàng thương mại còn cung cấp cho KH trong nền kinh tế rất nhiều các dịch vụ tài chính khác như tư vấn đầu tư, bảo quản, quản lý hộ tài sản. Đặc biệt, khác rất nhiều lĩnh vực kinh doanh khác, hoạt động ngoại bảng trong các ngân hàng thương mại có một vai trò rất lớn, góp phần bộc lộ cả dự trữ ngầm và nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của ngân hàng. Hoạt động ngoại bảng của ngân hàng thương mại có ba mảng chính. Thứ nhất là việc quản lý tài sản cầm cố, thế chấp của KH trong hoạt động tín dụng. Mảng công việc thứ hai trong hoạt động ngoại bảng của ngân hàng thương mại rất quan trọng. Đó là quản lý các cam kết ngoại bảng truyền thống như bảo đảm, bảo lãnh… Cuối cùng, ngân hàng thương mại còn phải quản lý rất chặt chẽ các cam kết ngoại bảng phát sinh từ các công cụ tài chính phái sinh. Thực tế đã cho thấy hoạt động ngoại bảng của ngân hàng thương mại cũng rất quan trọng. Một số bài học kinh điển về rủi ro trong hoạt động NH đã chỉ ra nguy cơ sụp đổ cả hệ thống ngân hàng thương mại lâu đời, vững mạnh chỉ vì những sai lầm từ việc quản lý hoạt động ngoại bảng không tốt.
2. Theo tính hệ thống
Ngân hàng thương mại là một hệ thống kinh doanh, được tạo bởi hai tiểu hệ thống: tác nghiệp và quản lý. Cho nên, hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm hai loại: hoạt động tác nghiệp và hoạt động quản lý.
Hoạt động tác nghiệp
Hoạt động tác nghiệp là việc sử dụng các phương pháp và công cụ có thể để trực tiếp can thiệp vào quá trình biến đổi đầu vào thành đầu ra trong sản xuất, kinh doanh.
Đối với ngân hàng thương mại, hoạt động tác nghiệp bao gồm các nghiệp vụ cụ thể như nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, cho vay, đầu tư chứng khoán, mua sắm tài sản cố định, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế…
Ở nhiều loại hình doanh nghiệp, trong đó có ngân hàng thương mại, ranh giới giữa hoạt động tác nghiệp và hoạt động quản lý không hoàn toàn rạch ròi. Tuy nhiên, có thể xem xét tính chất của thông tin để phân biệt hoạt động tác nghiệp và hoạt động quản lý. Hoạt động tác nghiệp sử dụng thông tin từ hoạt động quản lý như các chỉ thị, mang tính chỉ đạo cho từng nghiệp vụ cụ thể. Trong khi đó, hoạt động quản lý sử dụng thông tin từ hoạt động tác nghiệp như thông tin báo cáo, phục vụ cho quá trình xây dựng và thực thi quyết định sản xuất, kinh doanh.
Hoạt động quản lý
Hoạt động quản lý là việc tổ chức, kiểm soát, điều phối các nguồn lực để đạt mục tiêu của sản xuất, kinh doanh.
Theo lý thuyết khoa học quản lý cổ điển, hoạt động quản lý có thể gồm 7 chức năng là lập kế hoạch, tổ chức, quản lý nhân lực, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra, và tài chính; hoặc 5 chức năng là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp, và kiểm tra.
Ngày nay, hoạt động quản lý có thể được tiếp cận theo quá trình hoặc theo hoạt động của tổ chức. Theo quá trình, hoạt động quản lý bao gồm 4 chức năng cơ bản: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, và kiểm tra. Theo tính chất hoạt động của tổ chức, hoạt động quản lý bao gồm những lĩnh vực khác nhau, có tính độc lập tương đối, cụ thể là quản lý marketing, quản lý nghiên cứu và phát triển, quản lý sản xuất – kinh doanh, quản lý tài chính, quản lý nguồn nhân lực, quản lý chất lượng, và quản lý các dịch vụ hỗ trợ cho tổ chức: thông tin, pháp lý, đối ngoại…
Như vậy, xét theo quá trình, hoạt động quản lý ngân hàng thương mại là quá trình xác định các mục tiêu, xây dựng kế hoạch kinh doanh, cũng như tổ chức phân bổ các nguồn tài nguyên để thực hiện các mục tiêu theo kế hoạch đã đặt ra.
Hoạt động quản lý ngân hàng thương mại bao gồm việc thiết lập các mục tiêu, xây dựng kế hoạch kinh doanh. Đối với mỗi ngân hàng thương mại, mục tiêu tổng quát nhất được thể hiện trong chiến lược kinh doanh của NH. Mục tiêu tối hậu đối với hoạt động tài chính của ngân hàng thương mại là các mục tiêu về thu nhập và mức độ rủi ro phải đương đầu trong ngắn hạn và dài hạn. Các mục tiêu trung gian được thể hiện thông qua số lượng, chủng loại, quy mô, kỳ hạn của sản phẩm, dịch vụ, mạng lưới hoạt động, hệ thống KH, trình độ công nghệ và nguồn nhân lực của ngân hàng thương mại Các mục tiêu tổng quát cần được cụ thể hoá thành các mục tiêu hành động với những chỉ tiêu chi tiết, mang tính hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động tác nghiệp. Kế hoạch kinh doanh cần thể hiện được tính khả thi và mối liên hệ giữa các mục tiêu tổng quát và cụ thể.
Bên cạnh đó, hoạt động quản lý ngân hàng thương mại còn là tổ chức, phân bổ các nguồn tài nguyên để thực hiện các mục tiêu theo kế hoạch đã đặt ra.Thực hiện các chương trình mục tiêu một mặt là quá trình cụ thể hoá các vị trí hay những phần hành công việc, mặt khác là xác định rõ chi phí và thu nhập khi thực hiện những phần hành này, hơn nữa còn bao gồm cả việc xây dựng bộ máy tổ chức, kiểm soát nguồn nhân lực, huy động và sử dụng vốn nhằm đạt mục tiêu kinh doanh của ngân hàng.
Đối với các ngân hàng thương mại có quy mô lớn, mô hình hoạt động có thể bao gồm một số khối chức năng lớn mang tính trụ cột, có ảnh hưởng sâu rộng tới toàn NH. Từ khối, mô hình chi tiết sẽ dẫn đến các ban, rồi đến các phòng và các bộ phận.
3. Theo công nghệ
Nếu như công nghệ được hiểu là tổng thể nói chung các phương tiện kỹ thuật, các phương pháp tổ chức, quản lý được sử dụng vào quy trình sản xuất để tạo ra các sản phẩm vật chất và dịch vụ [54], thì công nghệ ngân hàng là tổng thể những tác động kỹ thuật nghiệp vụ làm thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động nghiệp vụ, phương pháp quản trị điều hành, hình thức giao dịch, thu thập xử lý hệ thống thông tin, các sản phẩm dịch vụ và các mối quan hệ tác nghiệp trong hoạt động ngân hàng [47].
Trong các điều kiện tổ chức từ giản đơn đến phức tạp, từ thủ công đến cơ giới hoá rồi tự động hoá, hoạt động của ngân hàng thương mại đã có những thay đổi về chất. Nếu như các hoạt động của ngân hàng thương mại trước đây được tổ chức theo định hướng chức năng nghiệp vụ thì trong điều kiện công nghệ hiện đại, hoạt động của ngân hàng thương mại hướng về KH, coi KH là trung tâm để tổ chức hệ thống, mạng lưới phục vụ. Ở khía cạnh công nghệ, hoạt động của ngân hàng thương mại được xem xét dưới sự chi phối của hai mô hình tổ chức đặc thù: phân tán và tập trung.
Hoạt động của ngân hàng thương mại trong điều kiện phân tán
Điều kiện phân tán được đề cập đến ở đây là sự phân tán trong tổ chức bộ máy để thực hiện các hoạt động của ngân hàng. Trong điều kiện này, một NHTM thường bao gồm hội sở chính và các chi nhánh lớn có nhiều thẩm quyền, phân bố rộng khắp trong địa bàn hoạt động ở tầm quốc gia, khu vực hoặc thậm chí trên toàn cầu. Mỗi chi nhánh hoạt động như một ngân hàng nhỏ bởi có quyền tự quyết khá cao trong tổ chức như tổ chức cán bộ; quy mô hoạt động; loại hình sản phẩm; dịch vụ cung cấp cho KH…, và được sử dụng các phương tiện hỗ trợ riêng.
Về công nghệ, đặc trưng của hoạt động trong điều kiện này là vấn đề lưu giữ thông tin phân tán. Trước hết, sự phân tán thể hiện trong việc lưu giữ thông tin giữa các chi nhánh và hội sở chính. Theo định kỳ báo cáo, các chi nhánh gửi các thông tin tổng hợp, khái quát các mảng hoạt động của chi nhánh về hội sở chính. Bởi vậy, tại hội sở chính, việc nắm bắt tình hình hoạt động của chi nhánh được thực hiện một cách rời rạc theo các thông tin tổng hợp. Hơn nữa, trong một đơn vị NH (hội sở chính, sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch…), thông tin cũng được cập nhật và lưu giữ phân tán giữa các bộ phận khác nhau, chẳng hạn như cho vay, thanh toán trong nước, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế…
Tổ chức hoạt động phân tán phù hợp với điều kiện công nghệ đơn giản, thủ công, dữ liệu được lưu giữ trên giấy hoặc trong giai đoạn đầu mới đưa các máy tính cá nhân không nối mạng, hoặc nối mạng nội bộ trong từng đơn vị ngân hàng vào sử dụng để hỗ trợ việc xử lý giao dịch và lưu giữ thông tin.
Ưu điểm của mô hình phân tán là chi phí đầu tư cho công nghệ thấp, có thể đầu tư rời rạc cho từng bộ phận và khả năng mở trong việc đầu tư nâng cấp hoặc bổ sung. Bởi vì các bộ phận hoạt động phân tán nên ảnh hưởng qua lại thường hạn chế. Nếu một bộ phận gặp vấn đề về công nghệ thì chỉ ảnh hưởng đến cụm xung quanh nó, còn các nơi khác vẫn có thể tiếp tục hoạt động. Ngoài ra, trong điều kiện phân tán, đòi hỏi về cơ sở hạ tầng và trình độ nhân lực cũng không lớn.
Hạn chế của hoạt động ngân hàng phân tán là phân tán và “chẻ nhỏ” dữ liệu của toàn hệ thống, khó tạo ra một bức tranh toàn cảnh, kịp thời về hoạt động của hệ thống, làm hạn chế cả chức năng tác nghiệp và chức năng điều hành của hệ thống. Thông tin phân tán, một mặt làm cho hệ thống hoạt động kém hiệu quả vì không phối hợp được các giao dịch một cách trực tuyến và nhịp nhàng, có thể gây nên tình trạng lãng phí vốn cũng như các tài nguyên khác, một mặt làm tăng rủi ro trong hoạt động. Chẳng hạn, việc phân tán thông tin về KH có thể dẫn đến tình trạng không cập nhật thông tin KH đầy đủ giữa các bộ phận trong một đơn vị ngân hàng và giữa các đơn vị ngân hàng với nhau. Một KH có thể được đánh giá hoàn toàn khác nhau giữa các đơn vị ngân hàng. Rủi ro đạo đức và thông tin không cân xứng là vấn đề nổi cộm trong điều kiện phân tán thông tin của ngân hàng. Hơn nữa, việc quản lý trong nội bộ hệ thống như vốn khả dụng, các khoản đầu tư và chi tiêu khác có thể rất yếu và tiềm ẩn nhiều rủi ro xuất phát từ các mâu thuẫn vì thông tin về những hoạt động này trong cả hệ thống thường rời rạc và chắp vá, vừa có thể trùng lặp hoặc lại có thể thiếu.
Để giảm ảnh hưởng tiêu cực của điều kiện phân tán, các ngân hàng thương mại thường phải khắc phục bằng các tăng cường quản lý các đối tượng KH cũng như các hoạt động trong nội bộ hệ thống. Các báo cáo về tình hình hoạt động có thể được yêu cầu thường xuyên, chi tiết và kịp thời hơn. Hội sở chính chịu trách nhiệm trong việc chuẩn hoá các hoạt động của chi nhánh nhằm xoá bỏ sự khác biệt trong giao dịch đối với KH giữa các đơn vị ngân hàng khác nhau. Tuy nhiên, tất cả những cố gắng này không thể triệt tiêu được các nhược điểm kể trên mà chỉ có thể làm giảm ảnh hưởng xấu của chúng tới hiệu quả hoạt động và mức độ rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Hoạt động của ngân hàng thương mại trong điều kiện tập trung
Ngày nay, vấn đề về công nghiệp ngân hàng vẫn còn là một vấn đề tranh cãi. Có những học giả đã lớn tiếng khẳng định “Hầu hết các nhà NH đều cho rằng NH là loại công nghiệp tài chính chứ không phải là công nghiệp dịch vụ” [78], rằng các ngân hàng đã dành hết nguồn nhân lực, vật lực và thời gian cho việc quản lý tài chính hơn là quản lý KH và công tác phục vụ. Bởi thế, khuynh hướng cạnh tranh của các ngân hàng là dựa trên năng lực về tài chính nhiều hơn là chất lượng dịch vụ. Quan điểm này hiện đang gây tranh cãi. Tuy nhiên, cho dù một ngân hàng được tổ chức để định hướng vào các nghiệp vụ cụ thể hay định hướng tập trung vào KH thì tổ chức hoạt động tập trung vẫn luôn là nền tảng tốt.
Tổ chức hoạt động ngân hàng theo mô hình tập trung đòi hỏi những điều kiện cơ bản về hạ tầng công nghệ thông tin như trang thiết bị phần cứng, mạng truyền thông, phần mềm và cơ sở dữ liệu cũng như đội ngũ nhân lực về công nghệ thông tin phải đạt những tiêu chuẩn tối thiểu.
Hoạt động của ngân hàng thương mại trong điều kiện tập trung được xây dựng trên nền tảng dữ liệu được tích hợp và tập trung tại hội sở chính. Hội sở chính được mở rộng và tăng cường thẩm quyền hơn, đặc biệt trong điều kiện thông tin minh bạch và quá trình trao đổi thông tin diễn ra dễ dàng, với tốc độ cao. Hội sở chính là nơi kiểm soát các sản phẩm dịch vụ cho từng nhóm KH mục tiêu thông qua các kênh phân phối. Trong điều kiện này, các chi nhánh được coi như một kênh phân phối và bán hàng cho hội sở chính. Hội sở chính, vì vậy, trở nên lớn hơn, trực tiếp kinh doanh trong một số lĩnh vực chiến lược như: kinh doanh tiền tệ, kinh doanh trên thị trường vốn, tín dụng, tài trợ thương mại… Các chi nhánh thì thu nhỏ lại cả về chức năng, nhiệm vụ và quy mô. Đối với hoạt động kế toán, hội sở chính là nơi tập trung lưu giữ và xử lý thông tin; các chi nhánh, phòng giao dịch trở thành nơi nhận, gửi thông tin với hội sở chính.
Tổ chức hoạt động ngân hàng theo mô hình tập trung thường hướng vào trung tâm KH. Ngân hàng nhận thức vai trò tối quan trọng của KH và sự phụ thuộc vào KH. Trong điều kiện này, ngân hàng trở thành một cỗ máy marketing chăm sóc, phục vụ KH. Nhờ vào hệ thống tập trung, ngân hàng có thể cung cấp tới KH các sản phẩm dịch vụ có tính đồng nhất, phong phú đa dạng hơn, chất lượng tốt hơn (và không hẳn đã phải trả giá cao hơn). Điều thú vị nhất cho KH là giờ đây họ chỉ cần mở tài khoản ở một nơi nhưng có thể giao dịch ở bất kỳ chi nhánh nào (trong phạm vi quốc gia) của một hệ thống ngân hàng. Cách thức tổ chức hoạt động của ngân hàng thay đổi từ bộ máy cơ cấu theo định hướng sản phẩm sang bộ máy cơ cấu theo định hướng KH. Như vậy, trong giai đoạn phát triển này, ngân hàng đã thực hiện chức năng tác nghiệp tốt hơn hẳn. Hơn nữa, đối với NH, hệ thống thông tin KH trên cơ sở tích hợp và dữ liệu tập trung không chỉ hỗ trợ các yêu cầu về tác nghiệp mà còn đem lại các thông tin tổng hợp theo chiều sâu giúp các nhà quản lý phân tích và đánh giá hiệu quả KH để xây dựng chính sách KH phù hợp.
Ưu điểm của mô hình hoạt động tập trung là loại bỏ được sự trùng lặp, chồng chéo. Mỗi quyết định hoặc thông tin đều là duy nhất, không có dị bản. Hoạt động của cả hệ thống xuyên suốt, ít trở ngại. Quá trình truy cập thông tin nhanh và chính xác do chỉ cần kết nối với trung tâm.
Tuy nhiên, mô hình hoạt động tập trung cũng có một số hạn chế căn bản. Thứ nhất là đòi hỏi về chi phí đầu tư xây dựng thường rất tốn kém; hạ tầng công nghệ thông tin cả bên trong và bên ngoài ngân hàng cùng phải rất tốt. Ngoài ra, khi trung tâm xử lý tại hội sở chính gặp vấn đề thì toàn bộ hệ thống có thể bị tê liệt.
Hoạt động của ngân hàng thương mại
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT
Pingback: Mục tiêu phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam đến năm 2020 - Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ
Pingback: Công nghệ ngân hàng thương mại hiện đại | luanantiensiaz
Pingback: Và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại | vietluanantiensi