Mục lục
Chiến lược phát triển bền vững của Nhật Bản
1. Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế – xã hội
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng kiệt quệ và khủng hoảng trầm trọng: năng lượng thiếu, lạm phát phi mã, thất nghiệp gia tăng. Nhưng nhờ có đường lối đúng đắn: “kinh tế là trên hết”, tất cả “hướng về sản xuất”, nền kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng vượt qua giai đoạn tái thiết (hàn gắn vết thương chiến tranh) để bước vào giai đoạn tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao: 6,9%/năm giai đoạn 1952-1960 và đặc biệt cao 10%/năm trong thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Đầu thập kỷ 70, Nhật Bản trở thành một trong những nền kinh tế hùng mạnh nhất thể giới, chỉ đứng sau Mỹ và EU. Song tăng trưởng đối với nền kinh tế Nhật Bản không phải là không có điểm dừng. Từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu suy thoái. Do vấp phải 3 cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1973-1975, 1981-1982, 1985-1986 dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhật Bản giảm sút nhanh và liên tục: năm 1983 đạt 3,2%, năm 1993 đạt 0,3% và đến năm 1998 tăng trưởng -0,7%. Từ năm 2000, bức tranh tăng trưởng kinh tế Nhật Bản trở nên ít sáng sủa. Hàng loạt công ty uy tín, nổi tiếng thế giới như Mitsubishi, Hitachi… rơi vào tình cảnh khó khăn, có trường hợp lâm vào tình trạng phá sản như hãng Nissan, một số tổ chức tài chính, ngân hàng bị phá sản hoặc thôn tính…Trải qua những thăng trầm trong phát triển kinh tế, mặc dù vẫn là một cường quốc kinh tế, nhưng Nhật Bản đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức, đó là:
– Về phát triển kinh tế: nền kinh tế phát triển không ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chưa đáp ứng mục tiêu: chuyển từ cơ cấu tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào thị trường bên ngoài sang cơ cấu tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào thị trường trong nước. Đặc biệt do theo đuổi chiến lược “kinh tế là trên hết”, cố gắng phát triển kinh tế để đuổi kịp và vượt các nước công nghiệp phát triển, dẫn đến tình trạng sử dụng công nghệ có hàm lượng chất xám thấp, tiêu hao và lãng phí nguyên liệu trong thời kỳ có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (1952-1960) là phổ biến.
– Về phát triển xã hội: mặc dù đời sống nhân dân đã được cải thiện và nâng cao rõ rệt, nhưng do quá chạy theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhấn mạnh mục tiêu lợi nhuận của các nhà tư bản độc quyền, dẫn đến tình trạng phát triển vùng không cân đối. Có những vùng (Tokyo, Yokohama, Osaka…) tập trung cao độ về vốn, nhân lực để công nghiệp hoá nên phát triển không cân đối và hài hoà, phân hoá rõ rệt giữa các vùng đô thị hoá nhanh với những vùng nông thôn ít được đầu tư, gây quá tải về nhà ở, kết cấu đô thị, giá cả đắt đỏ ở những vùng công nghiệp hoá quá mức.
– Về môi trường: do sử dụng máy móc thiết bị có hàm lượng công nghệ không cao, chạy theo lợi nhuận, gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nặng nề. Đặc biệt vào cuối những năm 60, đầu những năm 70 của thế kỷ XX, tình trạng ô nhiễm môi trường đã đến mức báo động: mưa axít, hiệu ứng nhà kính, nước nhiễm bẩn, chất thải rắn ở đô thị… rất nghiêm trọng. Đã xuất hiện nhiều cuộc biểu tình đấu tranh đòi phát triển kinh tế đi đôi với BVMT.
Những thách thức trên đây buộc chính phủ Nhật Bản phải điều chỉnh chiến lược phát triển của đất nước theo hướng phát triển bền vững.
2. Quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển bền vững
Để thực hiện thành công công cuộc tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh, tiến tới đuổi kịp và vượt các nước công nghiệp phát triển, Nhật Bản đã tổ chức lấy ý kiến, thảo luận rộng rãi về chiến lược phát triển kinh tế từ các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, các quan chức Chính phủ và địa phương. Thực chất là xác định mục tiêu đã được cụ thể hoá trong chính sách phát triển kinh tế gắn với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Nhật Bản đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội bền vững bao gồm 6 lĩnh vực sau:
– Chính sách quản lý cầu vĩ mô: đó là chính sách kinh tế theo những tiêu chuẩn cơ bản của Mỹ, trọng tâm là chính sách tài khoá và tiền tệ trong nền kinh tế thị trường Nhật Bản cũng như của thế giới. Hàng năm, Cục Quy hoạch kinh tế Nhật Bản cho xuất bản hai cuốn sách: “sách trắng về kinh tế” và “sách trắng về kinh tế thế giới”. Đó chính là những quan điểm chính thống, hướng dẫn cộng đồng kinh doanh theo đường lối của Chính phủ.
– Chính sách công nghiệp: bản chất của chính sách công nghiệp là trọng cung, giúp khu vực tư nhân phát triển các ngành công nghiệp mới, khi nền kinh tế Nhật Bản gia nhập vào thị trường thế giới. Chính sách công nghiệp nhằm 2 mục tiêu:
+ Phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu đặc biệt quan trọng ở mỗi giai đoạn phát triển.
+ Hỗ trợ các ngành công nghiệp yếu kém tái cấu trúc cơ cấu, giúp đỡ doanh nghiệp vừa và nhỏ (có chọn lọc một số ngành) cải tiến công nghệ và quản lý để tồn tại và phát triển.
– Chính sách phân phối: đây là chính sách mang tính điều tiết phát triển nền kinh tế gắn với phát triển bền vững về mặt xã hội rất rõ: Chính phủ Nhật Bản chú ý tới chủ nghĩa bình đẳng trong phúc lợi của nhân dân. Chính sách phân phối hướng đến ngăn ngừa những lệch lạc trong phân phối thu nhập và phúc lợi, đảm bảo không ngừng cải thiện phúc lợi cho nhân dân. Trong đó chính sách thuế thể hiện rõ chủ trương của Chính phủ, hệ thống thuế của Nhật Bản đánh thuế thừa kế rất nặng, thu thuế thu nhập luỹ tiến cao, tạo nên sự phân phối phúc lợi bình đẳng, giảm dần khoảng cách giàu nghèo. Ngoài ra một số chính sách đưa ra còn chú trọng những khoản trợ cấp cho những gia đình không may mắn, cùng với hệ thống chăm sóc y tế rộng rãi, đặc biệt là những người già trên 70 tuổi được chăm sóc y tế miễn phí, chú ý tới những người nghèo ở vùng nghèo (Hokkaido và Okinawa) thông qua các chính sách kinh tế khác.
– Chính sách phát triển vùng: chính sách phát triển vùng của Nhật Bản hướng tới phát triển đồng đều tương đối, phát huy thế mạnh của từng vùng, tránh phát triển tập trung quá mức KCN ở các thành phố lớn, đặc biệt là thủ đô Tokyo; ngăn ngừa tình trạng cách biệt quá mức về trình độ phát triển giữa các vùng và các khu đô thị. Trọng tâm của chính sách phát triển vùng là xây dựng kế hoạch phát triển tổng thể quốc gia, thiết kế và hướng dẫn phân bổ các hoạt động công nghiệp và dân số theo vùng hướng mạnh về .
– Chính sách nhân lực và giáo dục: chính phủ Nhật Bản nhận thức rất rõ được sự cần thiết, tầm quan trọng của chính sách tác động đến cung – cầu lao động cho nền kinh tế. Mọi chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực và phát triển giáo dục đều thể hiện tập trung trong cuốn “sách trắng về giáo dục”, “sách trắng về lao động” và “khảo sát cơ bản về giáo dục”.
– Chính sách nghiên cứu và triển khai (R&D): sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã từng được mệnh danh là đất nước của “vay mượn” công nghệ phương Tây, rồi cải tiến những công nghệ đó. Vì vậy, chính phủ quyết tâm xây dựng chính sách R&D, hướng tới khuyến khích các nhà khoa học sáng chế thông qua nhiều biện pháp, trong đó nổi bật là tăng chi ngân sách cho nghiên cứu và triển khai, trọng dụng nhân tài, khuyến khích nghiên cứu công nghệ mới, sử dụng ít nguyên liệu để tiết kiệm tài nguyên và BVMT.
Để thực hiện các chính sách nêu trên, Nhật Bản đã thực hiện các biện pháp:
(1) Phân công trách nhiệm đối với các chính sách phát triển:
– Quản lý cầu vĩ mô: Bộ Tài chính chịu trách nhiệm chính, Cục Quy hoạch kinh tế, Ngân hàng Nhật Bản phối hợp thực hiện.
– Chính sách công nghiệp: Bộ Thương mại quốc tế và Công nghiệp chịu trách nhiệm chính, Bộ Nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp phối hợp thực hiện.
– Chính sách phân phối: Bộ Phúc lợi.
– Chính sách nhân lực và giáo dục: Bộ Giáo dục
– Chính sách phát triển vùng: Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm chính, Bộ Giao thông và Liên lạc, Cục Quản lý đánh giá, Cơ quan phát triển Hokkaido và Cơ quan phát triển Okinawa phối hợp thực hiện.
– Chính sách R&D: Cục Khoa học và kỹ thuật.
Việc phân công trách nhiệm cụ thể cho các bộ, ban ngành đối với những chính sách phát triển tạo nên một sự thống nhất chung, có thể kết hợp hài hoà giữa các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường ở từng vùng, địa phương và giữa các ngành, các tổ chức xã hội, tạo sự đồng thuận, nhất trí giữa các tổ chức cơ quan.
(2) Xây dựng kế hoạch phát triển tổng thể quốc gia và kế hoạch phát triển vùng theo từng giai đoạn với những mục tiêu cụ thể, có sự điều chỉnh phù hợp.
(3) Sử dụng các công cụ thực hiện chiến lược phát triển bền vững:
– Sử dụng công cụ pháp luật: định hướng và bắt buộc tuân thủ pháp luật hướng tới phát triển bền vững.
– Sử dụng công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, nhất là các chính sách về tài chính, tiền tệ, giá cả để điều tiết hành vi của từng người dân, của toàn xã hội hướng tới phát triển bền vững.
– Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng: hướng dẫn, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục nhằm phát triển bền vững kinh tế, xã hội và BVMT.
(4) Huy động tổng lực các lực lượng tham gia phát triển bền vững như các tổ chức xã hội: phụ nữ, thanh thiếu niên, nông dân, công nhân, công đoàn, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, tôn giáo…
(5) Hợp tác quốc tế về phát triển bền vững
– Hỗ trợ tài chính và hỗ trợ kỹ thuật công nghệ cho các nước đang phát triển thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
– Cam kết thực hiện tốt Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Đánh giá một cách tổng quát, xây dựng chiến lược phát triển bền vững ở Nhật Bản là một quá trình lịch sử, cụ thể và phát triển. Không phải ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã nhận thức và thực hiện chiến lược phát triển bền vững toàn diện cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Ở thập kỷ 50, 60 và 70 của thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật bản chỉ chú trọng phát triển kinh tế bằng mọi giá, chưa thực sự tính đến vấn đề xã hội, đặc biệt là về môi trường. Khi Nhật Bản trở thành một cường quốc kinh tế trên thế giới, nhiều vấn đề đặt ra gay gắt: làm gì và làm thế nào để nền kinh tế không suy thoái – khủng hoảng, thuyết phục người dân cần mẫn, sáng tạo trong sản xuất? Làm gì và làm thế nào để hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên?… Để thực hiện chiến lược phát triển bền vững một cách toàn diện, Nhật Bản đã phải điều chỉnh các chiến lược phát triển, trong đó rõ nhất là từ thập kỷ 90 trở lại đây, hướng vào 4 mục tiêu cơ bản và dài hạn sau:
– Khuyến khích lối sống thân thiện với môi trường.
– Hình thành và phát triển các đô thị phát triển hiện đại, bền vững.
– Phát triển hệ thống kinh tế, xã hội gắn kết hài hoà với môi trường.
– Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phát triển bền vững quốc gia và BVMT toàn cầu, thông qua hỗ trợ vốn, khoa học – công nghệ cho các nước đang phát triển và các nước nghèo cùng chung sức thực hiện chiến lược phát triển bền vững. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, thúc đẩy phát triển bền vững toàn cầu. Trên thực tế, chương trình nghị sự 21 của Nhật Bản đã thực hiện lần đầu tiên vào năm 1993.
Chiến lược phát triển bền vững của Nhật Bản
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT