Trên thế giới, khái niệm về sở hữu chéo đã được các nhà nghiên cứu đưa ra trong các nghiên cứu dựa trên định nghĩa về sở hữu. Hiểu một cách đơn giản nhất sở hữu chéo là hiện tượng các doanh nghiệp nắm giữ cổ phần của nhau cho những mục tiêu cụ thể (Wang và cộng sự, 2012, [118]).
Các mục tiêu này có thể là việc thực hiện chiến lược phát triển của doanh nghiệp, mặc dù nó có thể ảnh hưởng tiêu cực tới doanh nghiệp khác nhưng cũng có thể tạo ra lợi ích cho các bên liên quan; hoặc mục tiêu chống lại những quy định của pháp luật về đảm bảo đủ vốn.
Alberto và Alessia (2009) [33] định nghĩa sở hữu chéo là việc các doanh nghiệp tại Đức, bao gồm cả công nghiệp và tài chính, nắm giữ cổ phần dài hạn tại các doanh nghiệp khác. Tóm lại, sở hữu chéo trong doanh nghiệp là hiện tượng sở hữu cổ phần qua lại khi doanh nghiệp này nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp khác và cổ phần của bản thân doanh nghiệp đó lại được nắm giữ bởi các doanh nghiệp còn lại.
Sở hữu chéo thường được sử dụng để củng cố mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, và trong đó có cả loại hình doanh nghiệp đặc biệt là ngân hàng. Sở hữu chéo trong ngân hàng đã phát triển phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, chủ yếu tại các quốc gia có hệ thống NHTM với quy mô và vai trò quan trọng hơn thị trường chứng khoán, trong đó có Đức, Nhật Bản, Italy, Ấn Độ, Trung Quốc là những quốc gia tiêu biểu.
Sở hữu chéo trong hệ thống NHTM xuất phát từ sở hữu chéo trong hệ thống doanh nghiệp với đặc điểm là có NHTM tham gia vào hệ thống sở hữu cổ phần giữa các thành viên. Như vậy, sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng là việc một hay nhiều ngân hàng nắm giữ cổ phần lẫn nhau và/hoặc cổ phần của các doanh nghiệp phi ngân hàng khác.
Hiện tượng sở hữu chéo trong ngân hàng thương mại
5/5 - (100 Bình chọn)
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!