Giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
Với vai trò là công cụ pháp lý hàng đầu trong việc bảo đảm quyền con người, Bộ luật tố tụng hình sự thực sự đã là công cụ pháp lý không thể thiếu để các cơ quan, người tiến hành tố tụng thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền con người trong TTHS. Dựa trên các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự được áp dụng trong thực tiễn giải quyết VAHS, tác giả nhận thấy còn có tình trạng quyền con người trong xét xử bị xâm phạm là do một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự còn có bất cập, hạn chế. Do vậy, việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự là rất cần thiết để làm cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền con người trong TTHS.
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử vụ án hình sự
Cùng với thực hành quyền công tố, thì kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS nói chung và trong xét xử VAHS nói riêng được quy định thành một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy định:
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [22, Điều 23].
Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định thành một nguyên tắc cơ bản, tạo cơ sở pháp lý cho VKS thực hiện quyền kiểm sát trong TTHS nhằm bảo đảm pháp chế, bảo đảm quyền con người, nhưng trong giai đoạn xét xử, cụ thể hóa tinh thần nguyên tắc đó lại chưa được quy định cụ thể. Thực tiễn kiểm sát xét xử cho thấy, khi phát hiện thấy có vi phạm (tùy tính chất, mức độ ảnh hưởng đến quyền con người trong xét xử) của TA, thì VKS lại không có quyền năng pháp lý để ngăn ngừa, khắc phục vi phạm đó. Chẳng hạn, qua kiểm sát xét xử phát hiện thấy TA thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang biện pháp ngăn chặn khác nhưng lại chậm tống đạt cho bị cáo ở trại tạm giam hoặc có hành vi vi phạm pháp luật của HĐXX như không giải thích quyền và nghĩa vụ cho người làm chứng hoặc có hành vi ảnh hưởng đến quyền của bị cáo thì giải quyết như thế nào. Mặt khác, khi kiểm sát xét xử phát hiện thấy có vi phạm pháp luật trong xét xử của TA, thì VKS có thể ban hành kiến nghị TA cùng cấp hoặc cấp dưới khắc phục vi phạm hoặc kháng nghị. Tuy nhiên, chưa có quy định TA phải trả lời kiến nghị và trả lời kiến nghị của VKS trong thời hạn bao lâu. Tác giả kiến nghị quy định trong BLTTHS để cụ thể hóa tinh thần nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS thành một điều luật cụ thể như sau:
Điều …
- Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hành vi, bản án, quyết định của Tòa án khi xét xử vụ án hình sự. Áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để đảm bảo Tòa án xét xử độc lập, công minh, kịp thời và đúng pháp luật;
- Khi phát hiện thấy vi phạm pháp luật trong xét xử, Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu, kiến nghị hoặc kháng nghị;
Thứ hai, hoàn thiện các quy định về thẩm quyền tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên
Thẩm quyền tố tụng phản ánh địa vị pháp lý của các chủ thể khi tiến hành tố tụng, đồng thời thể hiện đặc trưng riêng biệt, vị trí cũng như vai trò của chủ thể đó. Các Điều 36, Điều 37 BLTTHS hiện hành quy định về quyền hạn tố tụng của các chủ thể này chưa hợp lý, còn có sự lẫn lộn giữa thẩm quyền tố tụng và thẩm quyền của người trực tiếp tiến hành tố tụng, chưa rạch ròi giữa thẩm quyền hành chính tư pháp và thẩm quyền tố tụng, dẫn tới thẩm quyền của người trực tiếp tiến hành tố tụng (thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử của KSV) chưa độc lập, trách nhiệm đặt ra khi có vi phạm thường không minh bạch. KSV khi kiểm sát xét xử còn quá phụ thuộc vào tính đúng đắn, kịp thời của các quyết định tố tụng do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng ban hành, trong khi trực tiếp tiến hành tố tụng lại là KSV, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng chỉ là người có thẩm quyền tố tụng (phát động tố tụng) nên thường chỉ quyết định tố tụng qua báo cáo, đề xuất của KSV. Trước thực tế đó, tính chủ động khi kiểm sát xét xử của KSV không cao, quá phụ thuộc vào thẩm quyền tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, trong khi trách nhiệm đặt ra thường cho KSV. Do đó, cần quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, KSV theo hướng phân định cụ thể thẩm quyền quản lý hành chính với thẩm quyền tố tụng. Không nên để những người trực tiếp kiểm sát xét xử thì không có thẩm quyền quyết định còn những người không trực tiếp kiểm sát xét xử lại có quyền quyết định. Vì như vậy sẽ không chính xác, khách quan và không ràng buộc được trách nhiệm. Cụ thể như sau: Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS là người quản lý và chỉ có vai trò là người có thẩm quyền tố tụng còn KSV mới là người tiến hành tố tụng. Viện trưởng, Phó Viện trưởng chỉ thực hiện các nhiệm vụ hành chính tư pháp và quyết định TTHS thuộc phạm vi phát động quá trình tố tụng như quyết định phân công, thay đổi KSV, quyết định kháng nghị, hủy bỏ quyết định không có căn cứ của KSV… không nên làm những nhiệm vụ tố tụng cụ thể. Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 36, Điều 37 BLTTHS năm 2003 theo hướng: một số quyền của Viện trưởng VKS sẽ chuyển cho KSV thực hiện như cấp giấy chứng nhận người bào chữa; yêu cầu đề cử người bào chữa; yêu cầu người phiên dịch, người dịch thuật; quyết định xử vật chứng, chuyển vật chứng; chuyển vụ án; yêu cầu định giá tài sản hoặc định giá lại, yêu cầu giám định hoặc giám định lại, yêu cầu thực nghiệm điều tra hoặc thực nghiệm lại.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định và thực hiện triệt để nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự và đề cao vai trò của người bào chữa
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định tranh tụng là một nguyên tắc của TTHS. Mặc dù tình thần và yêu cầu tranh tụng đã được đặt ra trong Điều 19 BLTTHS năm 2003 nhưng vẫn còn chưa đầy đủ. Do chưa có quy định nên việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng còn chưa được triệt để, không ít trường hợp vi phạm nguyên tắc tranh tụng trong TTHS. Quy định và thực hiện triệt để nguyên tắc tranh tụng là một trong những phương pháp để phòng, chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm hoặc vi phạm thủ tục tố tụng. Tranh tụng không chỉ trong giai đoạn xét xử mà còn ở giai đoạn điều tra và truy tố. Chỉ khi thực hiện được như vậy thì quyền con người của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác mới được bảo đảm, vi phạm pháp luật mới được hạn chế. Tác giả kiến nghị khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành nên quy định tranh tụng là một nguyên tắc của TTHS và TA phải có trách nhiệm bảo đảm cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Ở giai đoạn xét xử TA phải tạo điều kiện tối đa cho việc tranh tụng giữa các bên cả về thời gian tranh tụng và việc đưa ra chứng cứ chứng minh.
Để thực hiện được hiệu quả nguyên tắc tranh tụng trong TTHS, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử VAHS. Cần thiết phải nâng cao vai trò của người bào chữa. Hiện nay, số lượng và chất lượng người bào chữa, trong đó Luật sư còn ít về số lượng và còn hạn chế về năng lực. Do đó tác giả kiến nghị đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ Luật sư, trợ giúp pháp lý và mở rộng diện người được bào chữa như Người trợ giúp pháp lý, Luật gia hoặc những Giáo sư, Tiến sĩ Luật v.v… chứ không chỉ riêng Luật sư, Bào chữa viên nhân dân hay Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đồng thời, đối tượng được bào chữa không nên chỉ giới hạn là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà cần phải quy định người bị bắt hoặc bị án (người đã bị kết án) cũng thuộc đối tượng được bào chữa. Vai trò của người bào chữa trong xét xử VAHS còn hạn chế, do quy định về quyền của họ chưa được chú trọng. Tác giả cho rằng, khi sửa đổi, bổ sung BLTTHS hiện hành, cần bổ sung quyền của người bào chữa, đồng thời bảo đảm cho người bào chữa được bình đẳng khi thu thập và đưa ra chứng cứ để bảo vệ cho thân chủ mình, như: Quyền thu thập tài liệu, chứng cứ; hỏi người bị bắt; đưa ra chứng cứ.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự
Quy định hạn chế sự có mặt của KSV tại phiên tòa chỉ hai người (Điều 189 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành) là không phù hợp với thực tiễn yêu cầu tranh tụng và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người bằng kiểm sát xét xử sơ thẩm. KSV vừa thực hành quyền công tố vừa phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử có khối lượng công việc rất lớn, đặc biệt là với những vụ án lớn, phức tạp có nhiều Luật sư tham gia bào chữa. Đối với nhiệm vụ kiểm sát hành vi, quyết định tố tụng của TA, HĐXX, người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm đúng pháp luật đã chiếm một số lượng lớn công việc. Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 189 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 như sau: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa. Số lượng Kiểm sát viên tham gia phiên tòa do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định. Trong mọi trường hợp đều phải có kiểm sát viên dự khuyết”.
Về quy định sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa hiện hành có sự bất cập, chưa phản ánh được yêu cầu bảo đảm quyền con người của bị cáo trong thực tiễn tố tụng. Mặc dù bị cáo phải có mặt tại phiên tòa là bắt buộc nhưng khoản 2 Điều 187 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành lại cho phép TA tiếp tục xét xử vụ án vắng mặt bị cáo với lý do “Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ”. Qua hoạt động kiểm sát xét xử nhận thấy, TA được quyền xét xử khi bị cáo vắng mặt trong trường hợp trên là chưa hợp lý. Bởi vì, tinh thần cải cách tư pháp lấy kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm kết quả khi ra bản án, quyết định của TA (nghĩa là đòi hỏi tính khách quan đặc biệt). Cho rằng sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử là suy diễn cảm tính chủ quan, không phản ánh được tính khách quan của vụ việc. Thực tế đã cho thấy, bị cáo có thể khai khác ở giai đoạn xét xử, cho rằng họ vắng mặt không gây trở ngại là tước mất quyền được xét xử công bằng và bình đẳng của họ. Ngoài ra, quy định TA có quyền xét xử vắng mặt nhưng lại chưa đề cập tới tình huống có nhiều bị cáo, trong đó có bị cáo không thể có mặt tại phiên tòa (như bỏ trốn, bị bệnh hiểm nghèo). Vậy quyền của bị cáo có được bảo đảm không khi mà có thể có tiềm ẩn nhiều lý do các bị cáo có mặt tại phiên tòa sẽ đổ tội cho bị cáo vắng mặt và khả năng HĐXX ra bản án không bình đẳng và khách quan cho họ. Chúng tôi kiến nghị bỏ điểm c khoản 2 Điều 187 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành.
Thứ năm, hoàn thiện các quy định về thủ tục xét xử phúc thẩm hình sự
– Hoàn thiện các quy định về quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát và quyền kháng cáo của những người có quyền kháng cáo phúc thẩm hình sự.
Hiện tại Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chưa có quy định căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, cho nên dẫn tới một số khó khăn cho VKS thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quyền con người khi thực hiện biện pháp pháp lý này. Đồng thời, quy định về thời hạn kháng nghị phúc thẩm của VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp chưa phù hợp với thực tiễn cả về thời hạn và cơ chế bảo đảm pháp lý (TA đã không giao bản án, quyết định hoặc chậm giao bản án để hết thời gian kháng nghị). Đối với bản án của TA, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án” [22, Điều 234, khoản 1]. Đối với quyết định của TA, BLTTHS năm 2003 “Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định” [22, Điều 239, khoản 1]. Tác giả cho rằng, quy định trên gây khó khăn cho VKS khi thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm – một biện pháp pháp lý của kết quả kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự như, khi VKS cấp trên trực tiếp nhận được bản án, quyết định của TA ban hành, thì đã hết thời hạn hoặc gần hết nên không đủ thời gian để kiểm sát bản án, quyết định của TA để thực hiện kháng nghị phúc thẩm. Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định TA cấp sơ thẩm phải có trách nhiệm gửi bản án cho VKS cấp trên trực tiếp nhưng lại quy định VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định của TA đã xét xử sơ thẩm cấp dưới là chưa phù hợp, chưa tạo điều kiện để VKS thực hiện quyền kháng nghị. Ngay cả TA cấp sơ thẩm đã xét xử sơ thẩm dù rằng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định phải giao bản án, quyết định cho VKS cùng cấp để kiểm sát, nhằm phát hiện sai phạm từ đó có cơ sở để kháng nghị phúc thẩm. Tuy nhiên, nhiều trường hợp TA giao bản án, quyết định chậm cho VKS cùng cấp. Vấn đề này cơ chế pháp lý chưa đặt ra để ràng buộc trách nhiệm TA phải giao bản án, quyết định cho VKS. Nếu VKS kiến nghị đối với TA cùng cấp yêu cầu rút kinh nghiệm nhưng việc TA thực hiện hay không, thực hiện như thế nào đối với nội dung kiến nghị thì cũng không có quy định pháp luật nào đề cập tới. Những vấn đề trên cho thấy, để bảo đảm quyền con người được hiệu quả cần phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm tạo điều kiện cho VKS kiểm sát xét xử và tiến hành các biện pháp pháp lý theo luật định.
Đồng thời, Điều 238 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định về quyền được thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là chưa phù hợp, chưa bảo đảm quyền cho người kháng cáo và kháng nghị để bảo đảm quyền con người. Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã quy định trước hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc VKSND ngoài các quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị còn có quyền rút kháng cáo, kháng nghị thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ. Quy định như vậy chỉ đảm bảo một nửa quyền của người kháng cáo và chưa tạo điều kiện toàn diện cho hoạt động kháng nghị của VKSND trong việc bảo đảm quyền con người. Đó là, nếu người kháng cáo hoặc VKSND rút kháng nghị nhưng thời gian để kháng cáo hoặc kháng nghị vẫn còn thì người kháng cáo và người kháng nghị dù đã rút kháng cáo, kháng nghị vẫn phải có quyền kháng cáo, kháng nghị lại (nếu chưa hết thời hạn). Thực tiễn có thể có nguy cơ vì lý do nào đó mà người kháng cáo rút kháng cáo nhưng sau thấy cần phải kháng cáo lại nhưng lại không được pháp luật cho phép. Tác giả cho rằng, đây là quy định chưa tạo điều kiện để bảo đảm quyền con người trong TTHS. Do vậy, cần sửa các Điều 229, Điều 234, Điều 239 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 như sau:
Điều 229: “Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án, quyết định cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày Tòa án ra bản án, quyết định”.
Đồng thời, nhập khoản 1 Điều 239 vào khoản 1 Điều 234: “Thời hạn kháng cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp là mười lăm ngày và thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Người kháng cáo, kháng nghị có quyền kháng cáo, kháng nghị lại nếu chưa hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị”.
– Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm hình sự.
Các quy định về thủ tục xét xử phúc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền con người. Các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải căn cứ vào đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các quy định đó sẽ là cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền con người khi giải quyết VAHS, nếu như nó phản ánh đúng thực tiễn tố tụng và không tồn tại những hạn chế gây khó khăn cho các cơ quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Các tồn tại nhất định dù ở mức độ nào đi nữa trong Bộ luật tố tụng hình sự đều có ảnh hưởng đến nhiệm vụ và mục tiêu bảo đảm quyền con người trong TTHS. Do đó, cần thiết phải hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự ở thủ tục xét xử phúc thẩm để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi nhất cho công tác bảo đảm quyền con người khi giải quyết phúc thẩm VAHS. Thực tiễn tố tụng ở thủ tục xét xử phúc thẩm VAHS cho thấy, còn tồn tại một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành cần phải được hoàn thiện. Đó là thẩm quyền sửa bản án của TA cấp phúc thẩm được quy định tại khoản 3 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Theo đó, khi xét xử TA cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án cấp sơ thẩm, theo hướng “áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn” là chưa đảm bảo quyền của bị cáo. Đây là quy định không phù hợp với thực tiễn yêu cầu bảo đảm quyền con người và trái với bản chất của tố tụng là công tố ở phạm vi nào thì mới có xét xử ở phạm vi đó. TA cấp sơ thẩm đã quyết định một tội danh, một mức hình phạt trong phạm vi luật định trên kết quả buộc tội của VKSND và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Việc TA cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án theo tội nặng hơn so với tội danh mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là không đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, làm mất đi tính chất xét xử phúc thẩm – là xét xử lại nhưng trên cơ sở cấp sơ thẩm đã xét xử. Kháng nghị của VKSND cấp phúc thẩm và kháng cáo của người bị hại không thể thay thế được việc buộc tội và xét xử ở cấp thứ nhất – xét xử sơ thẩm. Tác giả kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 như sau: “Trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, người bị hại kháng cáo theo hướng tăng hình phạt thì Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử; nếu trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm thấy Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng sai điều luật, cần phải xử bị cáo về tội nặng hơn thì tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại”. Quy định như vậy mới đảm bảo quyền bảo chữa của bị cáo trong TTHS, đồng thời không phá vỡ tính chất của cấp xét xử sơ thẩm. Giải quyết được vấn đề là nếu cấp phúc thẩm sửa theo hướng tội danh nặng hơn, thì không có cấp xét xử tiếp theo để bị cáo và người bào chữa tranh luận như ở thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm nữa. Nếu có vi phạm thì chỉ báo cáo cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng quyền bào chữa của bị cáo sẽ không còn nữa, ngoài ra vụ án sẽ kéo dài và đặc biệt là phá vỡ tính ổn định của bản án, tạo nên nhiều áp lực không đáng có cho cấp giám đốc thẩm. Hoàn thiện theo hướng trên sẽ khắc phục được hiện tượng thoái thác cho cấp xét xử phúc thẩm và đảm bảo được yêu cầu của xét xử phúc thẩm là TA cấp phúc thẩm không làm thay cho cấp sơ thẩm.
– Hoàn thiện các quy định về giao bản án, quyết định phúc thẩm hình sự.
Một trong những hạn chế làm giảm hiệu quả bảo đảm quyền con người là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chưa tạo điều kiện cho VKS kiểm tra bản án phúc thẩm để phát hiện vi phạm pháp luật, xem xét kháng nghị giám đốc thẩm. Do Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định TA cấp phúc thẩm sau khi ra bản án, quyết định phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho VKS cùng cấp. Để bảo đảm quyền con người trong TTHS, Bộ luật tố tụng hình sự quy định VKS có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự lại không quy định TA đã xét xử phúc thẩm phải gửi bản án cho VKS cùng cấp, thì VKS lấy gì để kiểm tra phát hiện vi phạm pháp luật, từ đó thực hiện được nhiệm vụ bảo đảm quyền con người. Tác giả đồng ý với ý kiến sau của tác giả Phan Văn Sơn là: “Bản án phúc thẩm là đối tượng kiểm sát của Viện kiểm sát, tuy nhiên tại Điều 254 Bộ luật tố tụng hình sự lại không quy định Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án phúc thẩm cho Viện kiểm sát cấp phúc thẩm là một thiếu sót” [25, tr. 17]. Để khắc phục tình trạng này, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 254 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 như sau: “Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án hoặc quyết định phúc thẩm cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp”.
Thứ sáu, hoàn thiện các quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự
- Hoàn thiện các quy định về thủ tục giám đốc thẩm.
Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt nhằm khắc phục, sửa chữa sai lầm mà các cấp xét xử trước đã vi phạm. Mặc dù không phải là cấp xét xử nhưng có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Do vậy, mọi hạn chế, bất cập ở thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự đều có thể dẫn đến việc áp dụng trong thực tiễn không được hiệu quả, quyền con người không được bảo đảm. Bởi vậy, cần thiết phải hoàn thiện các quy định về thủ tục này trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật khi giám đốc thẩm VAHS.
Về phạm vi giám đốc thẩm, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị” [22, Điều 284]. Thực tiễn kiểm sát xét xử ở thủ tục giám đốc thẩm nhận thấy phạm vi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm quá rộng đã ảnh hưởng đến quyền lợi của những người không liên quan đến kháng nghị, đồng thời phá vỡ tính ổn định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Quy định này dẫn đến thực tế là, TA cấp giám đốc thẩm phải xét xử như một cấp xét xử thứ ba, không đúng với bản chất là thủ tục đặc biệt nữa. Quy định trên cho phép TA cấp giám đốc thẩm xem xét những vấn đề ngoài phạm vi kháng nghị, do vậy TA cấp này có thể hủy bản án hoặc quyết định để điều tra hoặc xét xử lại theo hướng bất lợi cho cả những người không bị kháng nghị. Chúng tôi cho rằng, không nên quy định TA cấp giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án trong mọi trường hợp. Bởi giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử. Cấp giám đốc thẩm chỉ nên xem xét trong phạm vi có kháng nghị và chỉ đối với những bản án, quyết định có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, dẫn tới việc giải quyết vụ án không khách quan, không công bằng. Đồng thời, quy định TA cấp giám đốc thẩm có quyền quyết định toàn bộ nội dung vụ án là không đúng với tính chất giám đốc thẩm là chỉ tiến hành khi có kháng nghị của người có thẩm quyền, dẫn đến làm thay, không phát huy được trách nhiệm của cấp phúc thẩm. Việc xem xét toàn bộ vụ án nên để cấp phúc thẩm tiến hành sẽ đúng với tính chất của nó hơn. Do vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 284 BLTTHS hiện hành như sau: “Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét vụ án trong phạm vi nội dung của kháng nghị”.
Về thời hạn giám đốc thẩm, thực tiễn giám đốc thẩm cũng cho thấy, thời hạn tiến hành giám đốc thẩm bốn tháng là quá dài, ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của những người liên quan, sẽ đương nhiên tác động đến quyền con người. Vì giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử, không phải cần có bên buộc tội và bên gỡ tội như ở các cấp xét xử trước đó, giám đốc thẩm chỉ xem xét các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ đã được TA cấp dưới sử dụng để ra bản án hoặc quyết định. Mục đích của giám đốc thẩm là kiểm tra lại tính có căn cứ, tính hợp pháp của bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị, TA cấp giám đốc thẩm không có trách nhiệm chứng minh mà chỉ có trách nhiệm xem xét nội dung kháng nghị để đối chiếu với các chứng cứ, tài liệu đã được TA cấp dưới áp dụng tương ứng với điều luật ra sao mà thôi. Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 283 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành như sau: “Phiên tòa giám đốc thẩm phải được tiến hành trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị. Đối với những vụ án phức tạp thì thời hạn phiên tòa giám đốc thẩm phải được tiến hành trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị”.
- Hoàn thiện các quy định về thủ tục tái thẩm hình sự.
Tác giả kiến nghị bỏ căn cứ kháng nghị tái thẩm tại khoản 2 Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành: “Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai”. Bởi vì, nếu những chủ thể tiến hành tố tụng trên có kết luận sai, thì bao giờ cũng gây hậu quả nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, dù cho họ cố ý hay vô ý. Đây không phải là tình tiết mới nếu xét về bản chất trách nhiệm của nó. Họ có trách nhiệm giải quyết vụ án khách quan, chính xác và đảm bảo đúng pháp luật, cho nên những kết luận của họ bao giờ cũng là chủ quan – ý chí của họ. Do vậy, nó không thể là tình tiết khách quan để cho rằng nó là tình tiết để tái thẩm được, tình tiết này nên cho là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm sẽ đảm bảo phù hợp hơn.
Giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT