Tính hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

Đặc điểm dịch vụ

Mục lục

Tính hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

Nguyễn Thị Tỵ
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế

1. Khái niệm và bản chất của toàn cầu hóa kinh tế:

– Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế:

Về mặt kinh tế, có thể hiểu toàn cầu hóa (TCH) là quá trình lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ kinh tế vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu. Trong đó, hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động,… vận động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau hình thành mạng lưới quan hệ đa tuyến vận hành theo các “luật chơi chung” được hình thành qua sự hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên trong cộng đồng quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hóa, các nền kinh tế quan hệ ngày càng mật thiết với nhau, tùy thuộc lẫn nhau.

– Bản chất của toàn cầu hóa kinh tế (TCH KT)

Cũng như bất kỳ hiện tượng chính trị, kinh tế, xã hội khác, toàn cầu hóa kinh tế phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước, các lực lượng tham gia quá trình đó. Từ sau khi Liên Xô tan rã, Chủ nghĩa xã hội (CNXH) bị xóa bỏ ở các nước Đông Âu, tương quan lực lượng trên thế giới thay đổi không có lợi cho các lực lượng cách mạng. Về kinh tế, các nước công nghiệp phát triển nhất là Mỹ chi phối nền kinh tế thế giới từ sản xuất tới vốn, công nghệ, xuất khẩu, dịch vụ, thông tin và giữ vai trò chủ chốt trong nhiều tổ chức kinh tế. Từ đó, Mỹ và các nước công nghiệp phát triển tìm mọi cách áp đặt quyền thống trị, “các luật chơi” có lợi cho chúng. Tính chất đế quốc của quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra hiện nay và ngày càng thể hiện rõ. Trong văn kiện Đại hội IX – Đảng ta đã nhấn mạnh: TCH KT là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực; vừa có hợp tác vừa có đấu tranh…

[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm: Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ[/message]

2. Tính hai mặt của quá trình toàn cầu hóa kinh tế:

Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới. Tính tất yếu khách quan của TCH KT được thúc đẩy bởi các tiến bộ mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin. TCH KT có sức hấp dẫn vì nó làm cho nền kinh tế của các quốc gia nếu khéo vận dụng trong chiến lược hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của mình, được bổ sung những yếu tố mới, hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và hiệu quả hơn, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong nước. TCH KT đang ngày càng lôi cuốn nhiều dân tộc, quốc gia có trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị – xã hội khác nhau tham gia. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay và trong nhiều năm tới TCH KT chưa phải là công thức tối ưu cho tất cả các quốc gia, dân tộc. TCH KT chưa phải là môi trường tốt đẹp mà vào đó ai cũng thắng, ai cũng có lợi như nhau và không ai phải trả giá. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế diễn ra không trôi chảy, dễ dàng mà phải thông qua quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa hai nhóm nước: các nước phát triển và các nước đang phát triển, trong sự thống nhất và mâu thuẫn giữa TCH và liên kết khu vực, giữa tự do hóa và bảo hộ mậu dịch…

2.1. Những tác động tích cực của toàn cầu hóa kinh tế:

– TCH KT thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của LLSX, đưa lại sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế thế giới. Trong đó, cơ cấu kinh tế thế giới có bước chuyển dịch mạnh về chất: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội loài người. Các nước có nền kinh tế chậm phát triển nhờ tham gia TCH KT họ có điều kiện tiếp nhận các nguồn lực phát triển từ bên ngoài như vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ chuyển giao, kinh nghiệm tổ chức quản lý… khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên… thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế trong nước.

– TCH KT thực chất là mở rộng và phát triển thị trường toàn cầu. Sự giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào quan thuế và phi quan thuế bị dỡ bỏ, nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của các nước. Nửa đầu thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán của thế giới tăng 2 lần, đến nửa sau thế kỷ XX, do cắt giảm hàng rào quan thuế và phi quan thuế nên kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 50 lần. Sự phát triển mạnh mẽ thị trường toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hóa đã cho phép các nước đang và chậm phát triển có thể tận dụng các nguồn lực của mình, nhất là nguồn lực lao động dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một số ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ.

– Dưới tác động của quá trình TCH, những thành tựu của khoa học – công nghệ được chuyển giao nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi tạo điều kiện cho các nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học – công nghệ để phát triển.

– Cùng với quá trình TCH KT, nguồn vốn đầu tư quốc tế tăng mạnh góp phần điều hòa dòng vốn theo lợi thế so sánh tạo điều kiện cho các nước tiếp cận được nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài, hình thành hệ thống phân công lao động quốc tế có lợi cho cả bên đầu tư và bên nhận đầu tư. (Tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài năm 1997 gấp 800 lần năm 1914)

– TCH KT thúc đẩy sự cải cách sâu rộng các nền kinh tế quốc gia và sự hợp tác khu vực để các chủ thể này có thể nâng cao vị thế cạnh tranh và phát triển được trong nền KTTT thế giới.

– TCH làm cho mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh, sự giao lưu thuận tiện nhanh chóng…

– TCH KT mang lại lợi ích nhiều mặt cho các tầng lớp dân cư. Mọi người có điều kiện tận hưởng các sản phẩm và dịch vụ mới, rẻ từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt những người lao động ở các nước nghèo có cơ hội tiếp cận với thị trường lao động quốc tế, tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế.

– Về mặt chính trị, quá trình TCH KT làm gia tăng tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia có lợi cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển.

Tóm lại, dưới tác động của TCH KT, thế giới ngày nay trở thành một thế giới thống nhất trong đa dạng. Các nền văn hóa giao thoa, con người ngày càng có điều kiện hướng tới sự phát triển toàn diện. Cùng với TCH là xu thế khu vực hóa. Xu thế khu vực hóa phản ánh sự khác biệt và mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia, khu vực trong một thế giới đa dạng, trong đó sự hợp tác và liên kết quốc tế ngày càng tăng lên nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, khu vực cũng rất gay gắt và quyết liệt.

2.2. Những tác động tiêu cực của TCH KT:

Những tác động tiêu cực của quá trình TCH KT bắt nguồn từ nguyên nhân cơ bản là các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ hiện còn chiếm ưu thế trong nền kinh tế thế giới, thao túng quá trình TCH KT, lợi dụng quá trình TCH KT để tăng cường bóc lột các nước nghèo thu lợi nhuận độc quyền cao. Có thể nêu ra một số tác động tiêu cực sau đây của quá trình TCH KT:

– TCH KT thông qua tự do hóa thương mại thường đem lại lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp phát triển vì sản phẩm của họ có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, do đó có sức cạnh tranh cao dễ chiếm lĩnh thị trường. Mặc khác, tuy nói là tự do hóa thương mại song các nước công nghiệp phát triển vẫn áp dụng những hình thức bảo hộ công khai (như áp dụng hạn ngạch) hoặc trá hình (như tiêu chuẩn lao động, môi trường…). Tuy có chuyển giao công nghệ song các nước công nghiệp phát triển thường không chuyển giao những thành tựu mới nhất mà thậm chí là chuyển giao những công nghệ lạc hậu hoặc đã khấu hao hết giá trị vào các nước chậm phát triển. Điều này tác động xấu đến sự phát triển kinh tế ở các nước chậm phát triển và dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế ở các nước này.

– TCH KT tác động trực tiếp đến lĩnh vực chính trị và an ninh quốc gia. Nó tạo ra nguy cơ cho các nước chậm và đang phát triển bị lệ thuộc vào kinh tế, từ đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị, gây nguy hại đến chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia. Thông qua con đường trao đổi, hợp tác kinh tế, đầu tư, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, các thế lực đế quốc đứng đầu là Mỹ muốn áp đặt hệ tư tưởng tư sản vào các nước khác, thực hiện “diễn biến hòa bình” thay đổi chế độ xã hội theo hướng thân phương Tây. Đối với các nước XHCN, chúng tìm cách xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản…

Thông qua con đường kinh tế, Mỹ và các thế lực đế quốc tìm cách gây sức ép với nhiều nước khác trong đó có các nước đi theo con đường XHCN về những vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo…, dùng mọi hình thức để can thiệp vào công việc nội bộ của nước đó.

– TCH KT làm trầm trọng thêm những bất công xã hội, làm sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Những nước được hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình TCH KT là những nước có nền KTTT phát triển (Mỹ, EU, Nhật…), những nước chịu nhiều thiệt thòi nhất trong quá trình TCH KT là những nước có nền kinh tế đang và chậm phát triển, các yếu tố của KTTT chưa được hình thành đồng bộ.

Theo báo cáo của chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), toàn thế giới vẫn còn hơn 1,2 tỷ người nghèo. Hiện tại, dân chúng ở 85 quốc gia có mức sống thấp hơn so với cách đây 10 năm. Các nước công nghiệp phát triển, với khoảng 1,2 tỷ người, chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm tới 86% GDP toàn cầu, trong khi đó các nước nghèo chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chỉ tạo ra 1% GDP toàn cầu.

Năm 1985, thu nhập bình quân tính theo đầu người ở các nước giàu chỉ gấp 76 lần so với các nước nghèo thì đến năm 1997, sự chênh lệch này đã tăng: 288 lần.

Theo tổng kết của UNDP, từ khi diễn ra quá trình TCH đến nay, trên thế giới có 10 nước giàu lên, 130 nước nghèo đi, trong đó 60 nước GDP bình quân đầu người thấp hơn trước khi tham gia TCH.

Tổng số nợ nước ngoài của các nước kém phát triển lên tới gần 2000 tỷ USD. Trong đó, 250 tỷ thuộc 41 quốc gia kém phát triển nhất. Trong số những nước vay nợ để phát triển, chưa đến 10% số nước có khả năng trả được nợ. Số còn lại biến thành con nợ lưu cữu. Nợ nước ngoài quá lớn của nhiều nước hiện nay như tảng đá đeo lên cổ họ đã kéo lùi sự tăng trưởng kinh tế ở những nước này.

– TCH KT có thể làm cho mọi hoạt động và đời sống con người trở nên kém an toàn. Từ an toàn của từng con người, từng gia đình đến an toàn quốc gia và an toàn của hệ thống thương mại, hệ thống tài chính toàn cầu.

– Do tác động của TCH KT các dòng hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ… dễ lưu thông trên bình diện toàn thế giới. Song cũng chính vì vậy mà sự đổ vỡ và “khủng hoảng” ở một khâu hoặc ở một nước nào đó theo hiệu ứng lan truyền có thể làm rung chuyển đến tất cả các quốc gia và khu vực trên thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Châu Á năm 1997 là một ví dụ.

– TCH KT có thể giúp cho các nước công nghiệp phát triển lợi dụng việc trả lương cao, các thiết bị nghiên cứu khoa học tốt, môi trường làm việc thuận lợi để thu hút nhân tài từ các nước đang phát triển. Do vậy, nguy cơ chảy máu chất xám là một hiểm họa thực sự của các nước đang phát triển trong cơ lốc của TCH KT.

3. Một số quan điểm của Đảng ta trong quá trình thực hiện hội nhập Kinh tế quốc tế (HNKTQT) :

Báo cáo chính trị – Đại hội IX (2001) và NQ 07 – Bộ Chính trị (tháng 11/2001) bàn về HNKTQT, nhấn mạnh: Nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.

Đảng và Nhà nước ta luôn coi HNKTQT là một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. HNKTQT là một trong những định hướng quan trọng để tranh thủ ngoại lực, khai thác nội lực, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh và ngày càng củng cố định hướng XHCN

Nội dung chủ yếu của HNKTQT mà nước ta cần và có thể tham gia từng bước là mở cửa thị trường về thương mại, đầu tư và dịch vụ. Hội nhập kinh tế có cả hình thức đa phương và song phương, vừa tham gia vào các tổ chức và diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực, vừa thiết lập quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học – kỹ thuật với từng nước. HNKTQT là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng cơ hội vừa đối phó thách thức. Đối với nước ta hiện nay, thách thức lớn nhất là khả năng cạnh tranh yếu về kinh tế, là sự yếu kém về năng lực dự báo chiều hướng phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện TCH, là trình độ non kém của đội ngũ cán bộ và bộ máy công quyền… Do vậy, chúng ta phải tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở rộng thị trường với một lộ trình hợp lý. Lộ trình này được xác định trên cơ sở tính toán căn cứ vào các yêu cầu và cam kết của ta khi gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, các thỏa thuận đàm phán song phương, đa phương. Tuy nhiên, xác định lộ trình HNKTQT không chỉ xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài thâm nhập mà còn phải tính toán thời điểm nền kinh tế nước ta từng bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường quốc tế, phát triển thị trường trong nước.

Để HNKTQT có hiệu quả, nước ta cần chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế một cách hợp lý theo hướng hiện đại nhằm phát huy lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của đất nước. Trong chính sách điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư nước ta cần phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ để nhanh chóng được hưởng thụ ưu đãi từ các tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực và thế giới.

Cùng với việc hoàn thiện chiến lược tổng thể về HNKTQT, trước mắt, cần đẩy nhanh tiến trình gia nhập APTA, hiệp định thương mại Việt – Mỹ, tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO… Để làm được điều này nước ta cần nhanh chóng xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng, tạo môi trường đầu tư thông thoáng để khai thông và tiếp nhận các dòng vốn, thương mại, dịch vụ và công nghệ quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Khoan. Bí thư Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Thương Mại
2. Đề cương trình bày vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. (Tài liệu tập huấn giảng viên Mác – Lênin) Hà Nội (2001)
3. Nguyễn Xuân Thắng. Viện Kinh tế thế giới
4. Toàn cầu hóa kinh tế và một số vấn đề đặt ra đối với HNKTQT ở Việt Nam.
5. Hội thảo khoa học Việt – Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội (11/2002).
6. Nhiều tác giả. Hội thảo khoa học về TCH và chủ động HNKTQT ở nước ta, Tạp chí Cộng sản số 14 (5/2003) 64.
7. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia (2001)
8. Lê Hữu Nghĩa. Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản
9. Toàn cầu hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn
10. Tài liệu tham khảo dùng cho lớp tập huấn giảng viên Mác – Lênin (2004)

Tính hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

2 thoughts on “Tính hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam

  1. Pingback: Khái niệm về toàn cầu hoá - Download Luận Văn

  2. Pingback: Toàn cầu hoá kinh tế và quá trình hội nhập của Việt Nam – luanvanazblog

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?