Tự Chủ Tài Chính: Định Nghĩa và Bản Chất (Dành cho Nghiên Cứu Sinh & Giảng Viên)
Mục lục:
- 1. Giới thiệu
- 2. Định nghĩa Tự chủ (Autonomy)
- 3. Định nghĩa Tự chủ tài chính
- 4. Quyền tự chủ tài chính
- 5. Tự chủ tài chính trong tổ chức công
- 6. Cơ chế tự chủ tài chính của tổ chức công
- 7. Ý nghĩa của tự chủ tài chính trong tổ chức công
- 8. Mục tiêu của tự chủ tài chính đối với các tổ chức công
- 9. Tự chủ tài chính tại các Vườn quốc gia
- 10. Nội dung nghiên cứu tự chủ tài chính tại Vườn quốc gia
1. Giới thiệu
Bài viết này trình bày một cái nhìn sâu sắc về khái niệm tự chủ tài chính, đặc biệt trong bối cảnh các tổ chức công và các Vườn quốc gia (VQG) tại Việt Nam. Được thiết kế dành riêng cho các nhà nghiên cứu, giảng viên đại học và những người quan tâm đến lĩnh vực kinh tế và quản lý tài chính công, bài viết này cung cấp một định nghĩa rõ ràng, phân tích bản chất và làm nổi bật tầm quan trọng của quyền tự chủ trong việc đảm bảo tính bền vững và hiệu quả của các tổ chức.
2. Định nghĩa Tự chủ (Autonomy)
Theo Từ điển tiếng Anh Oxford 2004, “autonomy” đề cập đến trạng thái hoặc chất lượng của một đối tượng hoặc đơn vị, chẳng hạn như một quốc gia, chính quyền địa phương, một tổ chức hoặc một cơ quan.
Tại Việt Nam, từ điển Tiếng Việt năm 2010 giải thích “tự chủ” là việc tự điều hành, quản lý mọi công việc của cá nhân hoặc của tổ chức mà không bị cá nhân hoặc tổ chức khác chi phối (Trần Đức Cân, 2012).
3. Định nghĩa Tự chủ tài chính
Tự chủ tài chính (TCTC) đề cập đến khả năng của một tổ chức trong việc kiểm soát các quyết định tài chính và nguồn lực mà không có sự can thiệp đáng kể từ bên ngoài. Nó liên quan đến quyền tạo thu nhập, phân bổ ngân sách theo nhu cầu và mục tiêu riêng của tổ chức.
Thompson (2019) mở rộng khái niệm này, định nghĩa TCTC là “sức mạnh của một tổ chức trong việc tạo ra và duy trì doanh thu của chính mình, đưa ra các quyết định tài chính và phân bổ nguồn lực theo các ưu tiên riêng của tổ chức đó”. Định nghĩa này nhấn mạnh khả năng của tổ chức trong việc tạo ra doanh thu và đưa ra quyết định mà không có sự can thiệp từ bên ngoài, nhấn mạnh việc kiểm soát các nguồn tài chính.
Từ góc độ quản lý tài chính, TCTC là việc cơ quan quản lý cấp trên cho phép đơn vị cấp dưới được phép chủ động điều hành, tự quyết các hoạt động tài chính trong khuôn khổ pháp luật về quản lý tài chính, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị. TCTC cho phép các tổ chức đa dạng hóa nguồn thu, đầu tư một cách chiến lược, phát triển thể chế và đảm bảo tính ổn định lâu dài.
4. Quyền tự chủ tài chính
Smith (2020) định nghĩa quyền TCTC là “quyền tự do của một tổ chức trong việc kiểm soát và quản lý các nguồn tài chính của mình một cách độc lập mà không bị ảnh hưởng hoặc ràng buộc quá mức từ bên ngoài”. Định nghĩa này nhấn mạnh sự độc lập và quyền hạn của các tổ chức trong việc quản lý tài chính của họ.
5. Tự chủ tài chính trong tổ chức công
Clark (1984) đưa ra khái niệm tự chủ của tổ chức công, đặt quyền lực của tổ chức công cấp dưới (chính quyền địa phương) trong mối quan hệ với cấp chính quyền cao hơn. Trong đó, quyền tự chủ của tổ chức công cấp dưới được xác định theo hai nguyên tắc cụ thể:
- Quyền đề xuất, khởi xướng: Quyền của chính quyền cấp dưới trong việc tự điều chỉnh và lập pháp phục vụ lợi ích và mục tiêu riêng của họ hoặc quyền hành động để thực hiện các nghĩa vụ chính đáng.
- Quyền miễn trừ: Quyền của chính quyền cấp dưới hành động mà không bị giám sát bởi cấp cao hơn.
TCTC được đặc trưng bởi sự kiểm soát của tổ chức đối với các quyết định và nguồn lực tài chính, cho phép tổ chức tạo thu nhập, phân bổ vốn và thiết lập các ưu tiên ngân sách dựa trên đặc thù riêng của họ.
6. Cơ chế tự chủ tài chính của tổ chức công
Cơ chế TCTC của tổ chức công là các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quy định về danh mục sự nghiệp công; giá, phí và lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công; phân loại mức độ TCTC; tự chủ sử dụng nguồn tài chính; tự chủ trong hoạt động liên doanh, liên kết; quản lý, sử dụng tài sản công và các quy định khác có liên quan (Chính phủ 2021).
7. Ý nghĩa của tự chủ tài chính trong tổ chức công
Tầm quan trọng của TCTC có thể được hiểu qua lăng kính của nhiều nghiên cứu khác nhau. Adams (2021) lập luận rằng quyền TCTC đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự đổi mới và thích ứng của tổ chức. Các tổ chức có quyền TCTC có quyền tự do đầu tư vào các chương trình, công nghệ và sáng kiến nghiên cứu mới nhằm thúc đẩy sự đổi mới và nâng cao khả năng cạnh tranh của tổ chức.
Brown (2017) nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền TCTC trong việc nâng cao hiệu suất và hiệu quả của tổ chức. Nghiên cứu cho thấy rằng các tổ chức có quyền TCTC lớn hơn sẽ linh hoạt điều chỉnh nguồn tài chính phù hợp với các ưu tiên chiến lược của họ, từ đó cải thiện kết quả hoạt động.
Hơn nữa, Anderson (2019) nhấn mạnh tác động của quyền TCTC đối với trách nhiệm giải trình của tổ chức. Họ cho rằng các tổ chức có quyền TCTC có nhiều khả năng thiết lập các biện pháp quản lý tài chính hiệu quả hơn, đảm bảo tính minh bạch trong phân bổ và báo cáo nguồn lực. Điều này nâng cao trách nhiệm giải trình của tổ chức đối với các bên liên quan và với cơ quan quản lý.
Cụ thể:
- Đa dạng hóa nguồn lực: TCTC cho phép các tổ chức khám phá các nguồn tài chính đa dạng ngoài các kênh truyền thống, giảm sự phụ thuộc vào nguồn ngân sách duy nhất (từ Chính phủ) và tăng cường sự ổn định tài chính.
- Thúc đẩy sự đổi mới và thích ứng: TCTC tạo cơ hội cho các tổ chức đầu tư vào cơ sở vật chất hạ tầng, nguồn nhân lực, từ đó phục vụ cho các mục tiêu của tổ chức.
- Trách nhiệm giải trình và minh bạch: TCTC đi kèm với việc đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý tài chính, thúc đẩy niềm tin giữa các bên liên quan, nâng cao uy tín của tổ chức và tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý giám sát hiệu quả.
- Tính bền vững lâu dài: TCTC cho phép các tổ chức lập kế hoạch và quản lý nguồn tài chính của mình với tầm nhìn dài hạn, áp dụng các chiến lược để đảm bảo sự bền vững tài chính, giúp các tổ chức vượt qua các thách thức tài chính, duy trì sự ổn định và tiếp tục thực hiện sứ mệnh và dịch vụ của mình trong thời gian dài.
Tóm lại, quyền TCTC mang lại cho tổ chức sự độc lập và quyền hạn để đưa ra các quyết định tài chính phù hợp với mục tiêu và ưu tiên của họ. Quyền TCTC cho phép tổ chức đa dạng hóa các nguồn tài trợ, đầu tư một cách chiến lược, thúc đẩy phát triển và đảm bảo tính bền vững. Bằng cách nắm lấy quyền TCTC, các tổ chức có thể nâng cao hiệu quả, khả năng thích ứng và đạt những thành công.
8. Mục tiêu của tự chủ tài chính đối với các tổ chức công
Mục tiêu của TCTC đối với các tổ chức công được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức công trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
- Thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ NSNN.
- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với ĐVSNCL, Nhà nước vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát triển; bảo đảm cho các đối tượng chính sách – xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ theo quy định ngày càng tốt hơn.
9. Tự chủ tài chính tại các Vườn quốc gia
9.1. Khái niệm Tự chủ tài chính tại các Vườn quốc gia
TCTC trong VQG đề cập tới khả năng của VQG trong việc ra quyết định không giới hạn về các công việc tài chính nội bộ của đơn vị mình. Khả năng quản lý các quỹ một cách độc lập sẽ giúp một VQG có thể định ra và hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược của mình. Nói cách khác, TCTC trong VQG chính là năng lực của VQG trong việc huy động, quản lý các quỹ và phân bổ ngân sách của mình một cách độc lập.
Với cách hiểu TCTC tại VQG như trên, các VQG được coi như một đơn vị cấp dưới được phân cấp trong các vấn đề liên quan đến đa dạng hóa nguồn lực, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, lập kế hoạch và quản lý các nguồn tài chính, phân bổ chi tiêu hợp lý.
Trong bối cảnh của Việt Nam, VQG được coi như một ĐVSNCL. Việc diễn giải và áp dụng TCTC một cách linh hoạt hơn trong mối quan hệ với các VQG là cần thiết. Cả khái niệm và tiến trình TCTC cần được hiểu là bao gồm một loạt các mục tiêu và kết quả tập trung vào việc cải thiện tính bền vững tài chính ở cấp độ rộng hơn và hệ thống hơn. Việc các VQG tìm cách tăng nguồn thu là điều cần thiết, nhưng không đồng nghĩa với yêu cầu thu hồi đầy đủ chi phí, trở nên độc lập hơn về tài chính hoặc “xã hội hóa” việc cung cấp tất cả các dịch vụ.
Theo nghĩa này, TCTC có thể hiểu được là một phần cốt lõi của bất kỳ chiến lược nào nhằm tăng cường tính bền vững tài chính cho các VQG – nhưng không nên được coi là mục tiêu duy nhất hoặc kết quả dự kiến của quá trình. Thay vào đó, tự chủ là một phương tiện để đạt được điều đó. Động lực chính là thiết lập các điều kiện tài chính cần thiết để tạo điều kiện, khuyến khích và quản lý VQG hiệu quả.
9.2. Đặc điểm Tự chủ tài chính tại các Vườn quốc gia tại Việt Nam
Việt Nam đã và đang dành các nguồn chi thường xuyên cho hoạt động bảo tồn ĐDSH, bảo vệ rừng, và quản lý hệ thống RĐD (các VQG&KBTTN) rộng lớn, phân bố khắp cả nước.
Để duy trì sự vận hành ổn định, lâu dài cho cả hệ thống VQG&KBTTN như vậy, thực tế đòi hỏi phải có các nguồn tài chính lớn, ổn định nhằm đáp ứng được nhu cầu của công tác BTTN.
Nguồn tài chính bồi hoàn lại cho BTTN hiện nay thấp hơn rất nhiều so với giá trị thực mà nó có thể đem lại. Ngân sách cho sự nghiệp bảo vệ môi trường hàng năm chỉ chiếm 1% tổng ngân sách từ năm 2006 và duy trì cho đến nay. Trong khi đó, nguồn chi trực tiếp cho bảo tồn ĐDSH chiếm chưa tới 0,4% tổng ngân sách cho sự nghiệp bảo vệ môi trường. Tỷ lệ này được cho là thấp hơn so với mức trung bình của các quốc gia trên thế giới (Bộ Tài nguyên và Môi trường 2014).
Hiện nay, phần lớn nguồn tài chính này hiện dựa vào NSNN (trung ương và địa phương), nguồn vốn ODA thông qua các dự án tài trợ, một phần từ các sáng kiến dựa vào thị trường – nguồn tài chính mới từ các DVDLST và chi trả DVMTR. Tài chính từ Ngân sách cấp cho các VQG bao gồm vốn ngân sách cho sự nghiệp lâm nghiệp, vốn ngân sách sự nghiệp bảo vệ môi trường hoặc các chương trình mục tiêu quốc gia – là nguồn riêng được bố trí hàng năm trong tổng chi ngân sách.
Một phần nguồn tài chính cho hoạt động BTTN ở Việt Nam được huy động từ các dự án tài trợ ODA. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA này đang có xu hướng giảm trong những năm gần đây khi Việt Nam chuyển sang nhóm quốc gia có thu nhập trung bình.
Trong những năm gần đây, theo xu hướng chung của thế giới, nguồn tài chính cho BTTN ở Việt Nam đang dần được đổi mới theo cơ chế thị trường thông qua hoạt động cung cấp các loại hàng hóa và DVMTR.
Tuy nhiên, hệ thống RĐD với lợi thế tính ĐDSH cao, khả năng giữ nước tốt nên việc chi trả DVMTR cần có một cơ chế riêng.
10. Nội dung nghiên cứu tự chủ tài chính tại Vườn quốc gia
10.1. Tự chủ về huy động và tạo nguồn tài chính
Là cách thức để VQG có thể huy động và tạo nguồn tài chính nhằm tạo lập quỹ tiền tệ. Nguồn lực tài chính có thể được huy động dưới dạng tiềm năng (nguồn lực tài nguyên hoặc nguồn nhân lực) và nguồn tài chính dưới dạng thực tế (vốn hay tiền).
Nguồn lực tài chính được đề cập ở đây là chỉ vốn (hay tiền) để VQG chi tiêu, huy động từ đâu? Huy động bằng cách nào. Cơ chế huy động và tạo nguồn tài chính cho VQG phải được đặt trong bối cảnh cơ chế tài chính cho hoạt động chung của VQG, trong đó bao gồm các hoạt động cốt lõi khác là hoạt động BV&PTR, bảo tồn ĐDSH, bảo vệ môi trường,…
Cơ chế huy động và tạo nguồn tài chính cho các hoạt động của VQG để thực hiện nhiệm vụ chính là BV&PTR, bảo tồn ĐDSH. Cơ chế đó cần thu hút được những nguồn lực tài chính cần thiết từ các chủ thể trong xã hội (bao gồm cả các chủ thể khác ngoài khu vực nhà nước) nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư chính đáng cho các hoạt động của các VQG, là cơ sở để tạo ra nguồn tài chính mới. Nguồn tài chính này sẽ được tái đầu tư trở lại cho các hoạt động của VQG.
10.2. Tự chủ trong giao dịch tài chính
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các ĐVSNCL trong giao dịch với bên ngoài, đặc biệt là trong các hoạt động liên doanh, liên kết, đồng thời tạo thêm nguồn thu cho đơn vị, Chính phủ quy định: ĐVSNCL được mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại hoặc Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng NSNN. Lãi tiền gửi đơn vị được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp hoặc bổ sung vào Quỹ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành (nếu có), không được bổ sung vào Quỹ bổ sung thu nhập.
Các ĐVSNCL được huy động vốn, vay vốn để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất theo quy định của pháp luật và phải có phương án tài chính khả thi để hoàn trả vốn vay, chịu trách nhiệm về hiệu quả của việc huy động vốn, vay vốn.
10.3. Tự chủ về phân bổ nguồn lực tài chính
Tự chủ về phân bổ nguồn lực tài chính là những cách thức liên quan đến việc quyền tự chủ phân bổ tài chính có được từ NSNN, các nguồn huy động được theo quy định tại các VQG. Một cơ chế tài chính tốt là cơ chế tài chính phải đảm bảo các nguồn lực tài chính được phân bổ đúng mục đích và hiệu quả.
Tại các VQG, để thực hiện các mục tiêu như bảo vệ HST rừng, bảo tồn, cứu hộ, phục hồi HST và tài nguyên rừng, điều tra và quy hoạch rừng, thống kê, kiểm kê thuộc lĩnh vực lâm nghiệp và bảo tàng, bảo quản mẫu (Thủ tướng Chính phủ, 2017), nguồn lực tài chính được phân bổ cho công tác quản lý, chi lương, bộ máy, hoạt động chuyên môn.
Tự chủ phân bổ nguồn tài chính cần đưa ra chí, định mức để đảm bảo nguồn tài chính được phân bổ một cách đầy đủ, đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả. Các BQL VQG cũng cần có các chỉ tiêu cụ thể cho từng hạng mục: tỷ lệ chi cho lương, bộ máy, tỷ lệ chi cho hoạt động chuyên môn, tỷ lệ chi cho đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng.
10.4. Tự chủ trong sử dụng nguồn lực tài chính
Cơ chế sử dụng nguồn tài chính cùng với chính sách phân bổ nguồn tài chính là cơ sở quan trọng nhất để các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc giám sát chi tiêu cho VQG. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ tự chủ trong việc sử dụng nguồn lực tài chính của VQG tập trung vào khả năng quản lý chi tiêu hiệu quả và bền vững, bao gồm tự chủ trong sử dụng nguồn kinh phí cho việc tăng thu nhập, các quỹ hoạt động sự nghiệp, quỹ khen thưởng.
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT