Các nghiên cứu ngoài nước về phát triển dịch vụ phi tín dụng

bảo lãnh ngân hàng

Các nghiên cứu ngoài nước về phát triển dịch vụ phi tín dụng

Liên quan đến vấn đề Phát triển dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng trên thế giới đã có một số tác giả tiếp cận ở các mảng nghiệp vụ và góc độ khác nhau như:

Chien-Chiang Lee , Shih-Jui Yang ,Chi-Hung Chang[41]: Non-interest income, profitability, and risk in banking industry: A cross-country analysis. Nhóm tác giả đã nghiên cứu tác động của thu nhập ngoài lãi (tức là thu nhập từ các DVPTD)đến lợi nhuận và rủi ro từ các NHTM. Từ kết quả khảo sát cho 967 NHTM cổ phầnở Châu Á, nhóm tác giả kết luận: Các hoạt động ngoài lãi của các NH Châu Á đã làm giảm rủi ro, nhưng không làm tăng lợi nhuận (dựa trên số liệu khảo sát lớn). Cụ thể, khi xem xét chuyên môn NH và mức thu nhập của một quốc gia, kết quả trở nên phức tạp. Hoạt động ngoài lãi giảm, lợi nhuận và rủi ro tăng lên đối với các NH chuyên về tiết kiệm. Các tác động cũng khác nhau đối với từng loại hình NH như hợp tác xã và các NHTMđầu tư. Mặt khác, các hoạt động ngoài lãi tăng nguy cơ rủi ro cho các NH ở các nước có thu nhập cao, trong khi tăng lợi nhuận hoặc giảm thiểu rủi ro cho các NH ở các nước thu nhập trung bình hoặc thấp. Và kết luận cuối cùng mà nhóm tác giả cho thấy thu nhập ngoài lãi bị tác động bởi lĩnh vực hoạt động chuyên sâu củaNH và mức thu nhập của một quốc gia. Các lĩnh vực hoạt động chuyên sâu củaNH quan trọng đối với hiệu quả của việc đa dạng hóa nguồn doanh thu.

– Wahyu Yuwana Hidayat , Makoto Kakinaka , Hiroaki iyamoto [50]: Bank risk and non-interest income activities in the Indonesian banking industry. Nhóm tác giả đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa rủi ro NH và thu nhập ngoài lãi của hệ thống NH ở Ấn Độtrong giai đoạn 2002 -2008. Phân tích đã cho thấy bằng chứng rõ ràng rằng tác động của hoạt động DVPTD đến rủi ro NH phụ thuộc rất lớn vào qui mô tài sản của NH. Cụ thể, mức độ thu nhập từ DVPTD thấp liên quan đến rủi ro cho các NH có qui mô tài sản nhỏ. Ngược lại, mức độ thu nhập từ DVPTD cao liên quan đến rủi ro cho các NH có qui mô tài sản lớn. Phát hiện này cho thấy cần bãi bỏ qui định khuyến khích các NH tham gia nhiều hơn vào các hoạt độngDVPTD có thể ảnh hưởng xấu đến hệ thống NH nói chung mà các NH có qui mô tài sản lớn đang đóng một vai trò quan trọng ở Ấn Độ.

– Matthias Köhler[45] : Does non-interest income make banks more risky? Retail-versus investment-oriented banks. Tác giả đã nghiên cứu tác động của thu nhập ngoài lãi đến rủi ro NH giữa các loại hình hoạt động NH như retail- versus investment-oriented banks. Cụ thể hơn, các NH khác tập trung vào các dịch vụ cho vay và nhận tiền gửi trở nên ổn định hơn nếu họ tăng thị phần của các hoạt động thu nhập ngoài lãi. Còn các NH như: Investment-oriented bankstrở nên rủi ro đáng kể. Họ không chỉ tạo ra một tỷ lệ cao trong thu nhập từ các hoạt động phi truyền thống, mà còn tham gia vào các hoạt động khác nhau từ các NH bán lẻ. Điều này có thể hạn chế những lợi ích tiềm năng cho các NH đầu tư theo hướng đa dạng hóa thu nhập ngoài lãi. Ngụ ý của tác giả nói lên rằng: có sự tác động khác nhau giữa thu nhập ngoài lãi đến rủi ro NH của các loại hình NH: Retail- versus investment-oriented banks.

– Ilias Santouridis ,Maria Kyritsi[42]: Investigating the Determinants of Internet Banking Adoption in Greece.Nhóm tác giả nghiên cứu cụ thể với một DVNH là dịch vụ internet banking. Dịch vụ internet banking giúp cho người sử dụng truy cập vào dịch vụ NH nhanh hơn, giảm thời gian, truy cập trực tiếp từ bất cứ nơi nào trên thế giới, chi phí thấp hơn và loại bỏ sự lo lắng do mang tiền mặt. Tuy nhiên, internet banking vẫn chưa được tập trung rộng rãi. Nhóm tác giả nghiên cứu với mục đích là để xác định những yếu tố nổi bật nhất ảnh hưởng đến khách hàng sử dụng dịch vụ internet banking ở Hy Lạp. Nghiên cứu được tiến hành bằng cách sử dụng một bảng hỏi và phỏng vấn khách hàng. Mục đích của nghiên cứu là đo lường nhận thức của khách hàng về tính tiện ích, mức độ an toàn, yên tâm, sự hài lòng của khách hàng khi sử dụng các dịch vụ internet banking. Nghiên cứu đã cho ra kết quả Cronbach’s alphadao động từ 0,88 và 0,93.

– Tiago Oliveira , Miguel Faria , Manoj Abraham Thomas , Aleš Popovič[48]: Extending the understanding of mobile banking adoption: When UTAUT meets TTF and ITM.Nhóm tác giả đề xuất và nghiên cứu mô hình về tầm quan trọng và mối quan hệ giữa nhận thức của người sử dụng mobile banking (Mbanking), tin tưởng ban đầu trong dịch vụ MBanking, và sự phù hợp giữa công nghệ và MBanking. Kết hợp sức mạnh của 3 mô hình: task technology fit (TTF), Usage of technology (UTAUT), Initial trust model (ITM). Nghiên cứu cho thấy: điều kiện thuận lợi và ý định hành vi trực tiếp ảnh hưởng MBanking. Tin tưởng ban đầu, đặc điểm công nghệ, và công nghệ phù hợp với nhiệm vụ có tổng số ảnh hưởng đến ý định hành vi. Bài viết cung cấp thông tin giá trị để ra quyết định có liên quan trong việc thực hiện và triển khai các dịch vụ MBanking. Đối với các nhà nghiên cứu, bài viết nhấn mạnh tính hữu ích của việc tích hợp TTF, UTAUT, ITM trong việc quyết định để nghiên cứu áp dụng công nghệ mới.

– Li Li , Yu Zhang [43]: Are there diversification benefits of increasing noninterest income in the Chinese banking industry? Bài viết của nhóm tác giả đề cập đến đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh phi truyền thống tác động đến thu nhập ngoài lãi của hệ thống NH Trung Quốc, dựa trên dữ liệu toàn ngành NH Trung Quốc trong giai đoạn 1986-2008. Ở cấp độ tổng hợp, có những lợi ích của đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh phi truyền thống làm gia tăng thu nhập ngoài lãi. Tuy nhiên thu nhập ngoài lãi có biến động cao hơn so với thu nhập lãi thuần, và lợi ích cận biên của đa dạng hóa tiềm năng giảm với sự gia tăng thu nhập ngoài lãi, các hệ số tương quan của tốc độ tăng trưởng thu nhập lãi thuần và thu nhập ngoài lãi chủ yếu là không đạt. Qua phân tích mô hình của nhóm tác giả chỉ ra rằng tác động của thu nhập ngoài lãi trên doanh thu và rủi ro ngành NH của Trung Quốc là không đáng kể. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả cho thấy thu nhập ngoài lãi đã làm đa dạng hóa doanh thu choNH, nhưng tăng sự phụ thuộc vào thu nhập ngoài lãi có thể làm trầm trọng thêm rủi ro/ lợi nhuận phi thương mại cho NH Trung Quốc.

– Van der Westhuizen, Gert[49]: The role of interest income and non-interest income on the relative efficiency of bank regions: The case of a large south African bank. Nhóm tác giả đã sử dụng dữ liệu Envelopment Analysis (DEA) để ước lượng hiệu quả kỹ thuật, phân bổ chi phí của 37 chi nhánh của các NH lớn ở Nam Phi. Hai mô hình được áp dụng để xác định tác động của thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi đến hiệu quả hoạt động của NH. Kết luận của nghiên cứu là: NH có thể trở nên hiệu quả hơn bằng các di chuyển ra khỏi thu nhập lãi với thu nhập ngoài lãi như nguồn thu nhập chính của NH. Các NH cần phải được di chuyển ra khỏi vai trò truyền thống của các trung gian (cách tiếp cận trung gian) cho một vai trò cung ứng các dịch vụ khác nhau. Thu nhập lãi là đơn chiều theo ý nghĩa của NH dự trữ Nam Phi. Thu nhập ngoài lãi là đa chiều với các tùy chọn khác nhau có sẵn trong cung ứng dịch vụ cho khách hàng (ví dụ bán chéo dịch vụ và hướng tới NH 1 cửa).

Các nghiên cứu ngoài nước về phát triển dịch vụ phi tín dụng

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

1 thoughts on “Các nghiên cứu ngoài nước về phát triển dịch vụ phi tín dụng

  1. Pingback: Các nghiên cứu trong nước về phát triển dịch vụ phi tín dụng - Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?