Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về nợ xấu ngân hàng

kế toán cho vay

Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về nợ xấu ngân hàng

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu. Quan điểm về nợ xấu khác nhau ở các quốc gia và trong một nền kinh tế dưới góc nhìn của các chủ thể khác nhau thì quan điểm về nợ xấu cũng có sự khác biệt.

Nếu đứng dưới góc nhìn của các NHTM thì nợ xấu có thể hiểu là những khoản cho vay không có khả năng sinh lời hay những khoản cho vay không còn hoạt động (NPLs : non – performing loans).

Trên thực tế, không có chuẩn toàn cầu để định nghĩa nợ xấu. Nhiều quan điểm đa dạng cùng song song tồn tại. Trước tiên là quan điểm về nợ xấu của NHTW Châu Âu (ECB). Quan điểm của ECB (2001) cho rằng “ Nợ xấu là những khoản cho vay không có khả năng thu hồi hoặc là những khoản cho vay có thể không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng” [64]. Như vậy, quan điểm này được xác định dựa trên kết quả trả nợ cuối cùng của khách hàng đối với ngân hàng.

Trong khi đó, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (2005) lại nhấn mạnh: “Một khoản cho vay được coi là không sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ được thực hiện đầy đủ” [64]. Với quan điểm này, nợ xấu được nhận dạng qua hai giác độ: thời gian quá hạn và khả năng trả nợ đáng nghi ngờ.

Còn tiêu chuẩn kế toán và ngân hàng quốc tế IAS 39, thường đề cập đến khái niệm này như những khoản cho vay bị tổn thất ( loans being impaired) hơn là cụm từ “nợ xấu” . (non- performing loans)[64].

[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm : Kinh nghiệm của một số nước trong quản trị nợ xấu[/message]

Về khái niệm hoạt động quản lý nợ xấu, Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (2005) cho rằng: “Quản lý Nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế sự phát sinh nợ xấu, đi kèm với các biện pháp xử lý những khoản nợ xấu đã phát sinh, từ đó nhằm tăng doanh thu, giảm chi phí và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn của NHTM”[53].

Vấn đề nợ xấu ngày càng thu hút được nhiều sự quan tâm trong vài thập kỷ gần đây. Hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng hậu quả trực tiếp của tỷ lệ nợ xấu tăng cao trong hệ thống ngân hàng là ngân hàng phá sản. Rất nhiều nghiên cứu về nguyên nhân phá sản của ngân hàng chỉ ra rằng chất lượng tài sản là một yếu tố dự đoán vỡ nợ rất quan trọng về mặt thống kê (Dermirgue-Kunt 1989, Barr và Siems 1994) và các tổ chức ngân hàng trước khi phá sản luôn có mức nợ xấu rất cao.

Nhiều lập luận lại cho rằng trì trệ kinh tế là một trong những nguyên nhân chính của nợ xấu ngân hàng. Mỗi khoản nợ xấu tại một khu vực tài chính được xem là hình ảnh phản chiếu của một doanh nghiệp yếu kém và không lợi nhuận. Từ quan điểm này cho thấy việc giảm thiểu nợ xấu là điều kiện cần thiết để cải thiện trạng thái kinh tế. Nếu nợ xấu vẫn tồn tại và tiếp tục gia tăng, các nguồn lực sẽ mắc kẹt trong những khu vực không lợi nhuận, kìm hãm sự phát triển kinh tế và làm giảm hiệu quả kinh tế.

Nợ xấu còn liên quan tới tính hiệu quả của khu vực ngân hàng. Nhiều nhà kinh tế đã nhận thấy rằng các ngân hàng phá sản có xu hướng nằm xa so với biên hiệu quả nhất (Berger và Humphrey (1992), Barr và Siems (1994), DeYoung và Whalen (1994), Wheelock và Wilson (1994)), do những ngân hàng này không tối ưu hóa các quyết định về danh mục đầu tư của mình bằng cách cho vay ít hơn so với khối lượng được yêu cầu. Hơn thế, có nhiều bằng chứng rằng giữa các ngân hàng không phá sản, tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa nợ xấu và hiệu quả hoạt động (Kwan và Eisenbeis (1994), Hughes và Moon (1995), Resti (1995)). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng: nợ xấu càng tăng thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng giảm.

Tỷ lệ nợ xấu tăng cao cũng dẫn tới xu hướng muốn thu hẹp tín dụng của các ngân hàng. Agung et.al. (2001) đã sử dụng phân tích dữ liệu vi mô và vĩ mô để nghiên cứu sự tồn tại của hiện tượng thu hẹp tín dụng tại Indonesia sau khủng hoảng 1997, khi mà tỷ lệ nợ xấu tại nước này tăng vọt.

Ngoài ra, trên thế giới có khá nhiều các nghiên cứu luận bàn về nguyên nhân gây ra nợ xấu ngân hàng. Đối với các nguyên nhân gây ra nợ xấu và sự ảnh hưởng của nợ xấu đến hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng, phải kể đến nghiên cứu của Keeton, William và Morris (1987). Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã thực hiện nghiên cứu trên các NHTM bị thua lỗ tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1979-1985 đồng thời sử dụng tỷ lệ nợ xấu làm thước đo chính cho việc đo lường rủi ro tín dụng tại các ngân hàng này. Mô hình kiểm định đã chỉ ra rằng các điều kiện kinh tế riêng biệt địa phương cùng với sự yếu kém trong hoạt động quản lý ngân hàng là các nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín.dụng. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng các NHTM sẵn sàng cho vay những món mạo hiểm thường có rủi ro vỡ nợ cao hơn so với các ngân hàng khác.

Một số nghiên cứu tiếp theo sau nghiên cứu của Keeton, William và Morris (1987) cũng lý giải tương tự về các yếu tố gây ra nợ xấu đối với các khoản cho vay tại Mỹ. Ví dụ nghiên cứu của Sinkey, Joseph. F và Greenwalt (1991) thực hiện trên các NHTM lớn ở Mỹ lập luận rằng cả hai yếu tố bên trong và bên ngoài ngân hàng đều là tác nhân gây ra sự đổ vỡ tín dụng. Tác giả tìm thấy một mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ lệ nợ xấu trong các khoản cho vay với các yếu tố chủ quan của ngân hàng như cho vay với lãi suất cao, hay cho vay nhiều quá mức…. Tương tự như các nghiên cứu trước đó, Sinkey, Joseph. F và Greenwalt (1991) cũng cho rằng các điều kiện kinh tế vĩ mô trong khu vực cũng giải thích cho sự phát sinh các khoản nợ xấu ngân hàng. Các nhân tố vĩ mô này bao gồm: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát hay tỷ giá hối đoái hàng năm… Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đơn giản dựa trên dữ liệu của các NHTM lớn tại Hoa Kỳ giai đoạn 1984-1987.

Tiếp tục phát triển nghiên cứu trước đó của mình, Keeton (1999) sử dụng dữ liệu các năm 1982 -1996 và mô hình véc tơ tự hồi quy, để phân tích tác động của tốc độ tăng trưởng tín dụng, quy trình tín dụng… với tình trạng quỵt nợ của khách hàng ở Mỹ. Nghiên cứu cho chúng ta bằng chứng về mối quan hệ chặt chẽ thuận chiều giữa tốc độ tăng trưởng tín dụng với khả năng suy yếu của các tài sản cho vay. Cụ thể, Keeton (1999) cho thấy, tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh chóng kết hợp với các tiêu chuẩn tín dụng được hạ thấp đã gây ra thiệt hại nặng nề khi cho vay ở một số bang trên nước Mỹ. Trong nghiên cứu này, nợ xấu được định nghĩa là các khoản cho vay quá hạn quá 90 ngày hoặc các khoản vay không trả lãi.

Các nghiên cứu ở các hệ thống tài chính khác cũng cho kết quả tương tự như các nghiên cứu ở Mỹ. Ví dụ, Bercoff và cộng sự (2002) nghiên cứu vấn đề nợ xấu đối với hệ thống NHTM Argentina trong giai đoạn năm 1993-1996, cho rằng các khoản nợ xấu bị ảnh hưởng nặng nề bởi cả hai yếu tố nội bộ ngân hàng và yếu tố kinh tế vĩ mô. Tác giả đã nghiên cứu riêng biệt các tác động của các yếu tố nội bộ ngân hàng và kinh tế vĩ mô xem mức độ ảnh hưởng của từng nhóm nhân tố như thế nào.

Salas, Vincente và Saurina (2002) đã sử dụng mô hình kiểm định với bảng dữ liệu giai đoạn 1985-1997 để điều tra các yếu tố gây ra các khoản nợ xấu của các ngân hàng Tây Ban Nha. Nghiên cứu cho thấy với tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP, sự mở rộng tín dụng nhanh chóng, sự mở rộng quy mô ngân hàng, tỷ lệ an toàn vốn và vị thế của ngân hàng trên thị trường tài chính khác nhau sẽ dẫn đến sự khác biệt về tỷ lệ nợ xấu.

Ba năm sau đó, Jimenez, Gabriel và Saurina (2005) khi tiếp tục nghiên cứu về vấn đề nợ xấu tại các NHTM tại Tây Ban Nha giai đoạn 1984-2003, đã cung cấp bằng chứng sống động rằng tỷ lệ nợ xấu có liên quan mật thiết đến tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP, mặt bằng lãi suất cao và điều kiện tín dụng dễ dãi. Nghiên cứu này cho rằng với lãi suất cao, các ngân hàng thường bị hút vào “ tâm lý bầy đàn” khi lôi kéo nhau cho vay quá mức dẫn đến các khoản nợ xấu.

Sử dụng mô hình dựa trên bảng dữ liệu áp dụng cho một số nước ở Sahara – châu Phi, Fofack (2005) tìm thấy bằng chứng cho thấy khi kinh tế khủng hoảng, cung ứng tiền tệ quá mức, lãi suất cho vay thay đổi, và sự tăng trưởng nóng của các khoản vay liên ngân hàng là yếu tố quyết định quan trọng dẫn đến sự phát sinh các khoản nợ xấu tại các nước này. Tài liệu này cũng cung cấp bằng chứng về mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ nợ xấu. Fofack (2005), cho thấy rằng lạm phát góp phần tạo nên các khoản nợ xấu ở các nước Sahara – châu Phi. Theo nghiên cứu này, lạm phát gây ra sự xói mòn nhanh chóng tài sản các NHTM và gia tăng rủi ro tín dụng ở các nước châu Phi.

Cũng có bằng chứng giữa nợ xấu và tỷ giá hối đoái. Fofack (2005) cho biết những thay đổi trong tỷ giá thực sự có tác động đến các khoản nợ xấu tại một số tiểu vùng Sahara châu Phi. Tác giả cho rằng kết quả này là do các khoản cho vay quá lớn cho ngành xuất khẩu nông nghiệp, bị tác động mạnh bởi tỷ giá trong những năm 80 và đầu những năm 90. Như vậy, đã có sự liên hệ giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và các khoản nợ xấu, trong đó các khoản nợ xấu phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của một số nền kinh tế ở châu Phi.

Tại Châu Á, Rajan, Rajiv và Dhal (2003) đã sử dụng bảng phân tích hồi quy để chỉ ra rằng những điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi (tính bằng sự tăng trưởng GDP) và các yếu tố tài chính, các điều kiện tín dụng, quy mô ngân hàng, chiến lược tín dụng tác động đáng kể đến các khoản nợ xấu tại các NHTM ở Ấn Độ.

Hu và cộng sự (2006) có phân tích mối quan hệ giữa nợ xấu và cơ cấu sở hữu của các NHTM tại Đài Loan với một bộ dữ liệu vào giai đoạn 1996-1999. Nghiên cứu cho thấy hình thức sở hữu cũng là một nguyên nhân gây ra nợ xấu : cụ thể các ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nhà nước cao hơn sẽ có các khoản nợ xấu thấp hơn so với các ngân hàng khác. Hu và cộng sự (2006) cũng cho thấy rằng quy mô ngân hàng có mối quan hệ nghịch chiều với các khoản nợ xấu, (quy mô ngân hàng càng lớn thì tỷ lệ nợ xấu càng nhỏ) trong khi đa dạng hóa danh mục cho vay của ngân hàng lại không phải là yếu tố quyết định.

Khemraj, Pasha (2009), đã sử dụng phương pháp phân tích hồi quy và bảng dữ liệu trong 10 năm ( 1994- 2004) để xác định mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô, các yếu tố nội bộ ngân hàng với tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM Guyana. Bằng chứng cho thấy tỷ giá có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM Guyana, ta thấy rằng bất cứ khi nào có một sự suy giảm về khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế Guyana thì tỷ lệ nợ xấu sẽ cao hơn. Khemraj, Pasha cũng tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ nghịch chiều giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và các khoản nợ xấu. Kết quả cho rằng tác động của tăng trưởng GDP tới các khoản nợ xấu là tức thời. Còn lạm phát lại không phải là một yếu tố quyết định quan trọng tới tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng ở Guyana.

Đối với các biến số ngân hàng, nghiên cứu thấy rằng các ngân hàng có lãi suất cho vay cao thì có xu hướng phải chịu các khoản nợ xấu nhiều hơn. Tuy nhiên, trái với các bằng chứng quốc tế, kết quả của Khemraj, Pasha lại cho thấy không có ảnh hưởng đáng kể giữa quy mô của một ngân hàng và tỷ lệ nợ xấu. Nghiên cứu còn cho thấy rằng các ngân hàng tích cực hơn trong thị trường tín dụng, tức là có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao có thể sẽ có ít tỷ lệ nợ xấu, điều này mâu thuẫn với những nghiên cứu trước đó.

Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về nợ xấu ngân hàng

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

2 thoughts on “Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài về nợ xấu ngân hàng

  1. Pingback: Tình hình nghiên cứu trong nước về nợ xấu ngân hàng - Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

  2. Pingback: Các quan điểm về nợ xấu của ngân hàng thương mại - Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?