Định giá thương hiệu ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Mặc dù xây dựng và phát triển thương hiệu là được các ngân hàng thương mại Việt nam quan tâm và chú trọng trong nhiều năm gần đây nhưng định giá thương hiệu ngân hàng thương mại vẫn là vấn đề bị bỏ ngỏ. Các văn bản luật của nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng chưa đề cập đến thương hiệu ngân hàng thương mại nói chung và định giá thương hiệu ngân hàng thương mại nói riêng.
Vai trò của thương hiệu trong hoạt động ngân hàng là điều không ai phủ nhận nhưng nó có ý nghĩa bao nhiêu về mặt giá trị tài chính vẫn là câu hỏi khó trả lời, đặc biệt là trong những trường hợp quan trọng như cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh và xu thế sáp nhập giữa các ngân hàng thì việc xác định giá trị thương hiệu càng ỹ nghĩa rất lớn
Việc không tính được giá trị tài chính của thương hiệu ngân hàng đã làm méo mó trong các kết quả của định giá ngân hàng. Có thể xét trong từng trường hợp cụ thể như sau:
Thứ nhất, Trong báo cáo định giá của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam để tiến hành IPO đều không có giá trị của thương hiệu khi tính giá trị ngân hàng. Thực tế trong thời gian qua đã cho thấy, vấn đề định giá doanh nghiệp trong quá trình chuẩn bị cổ phần hoá là vấn đề phức tạp và tốn kém. Bởi lẽ, xác định giá trị ngân hàng cũng được tính như xác định giá trị doanh nghiệp
là quá trình xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm định giá. Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ quy định: “Giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hoá là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được”. Như vậy, những căn cứ để xác định giá trị thực tế của ngân hàng gồm: Số liệu trong sổ sách kế toán của ngân hàng tại thời điểm cổ phần hoá, số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại thực tế, giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm cổ phần hoá bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh, uy tín, tính chất độc quyền của sản phẩm dịch vụ, thương hiệu, khả năng sinh lời…
Tuy nhiên việc định giá lợi thế kinh doanh của ngân hàng là rất khó. Theo quy định của nhà nước, lợi thế kinh doanh của một ngân hàng giống lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm vị trí địa lý, giá trị thương hiệu và tiềm năng phát triển. Theo quy định hiện hành tại Thông tư số 126/2004/TT-BTC thì nếu cách xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản, giá trị lợi thế kinh
doanh của doanh nghiệp chỉ phù hợp với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường mà chưa thực sự phù hợp với ngân hàng thương mại quốc doanh vì ngoài vị trí địa lý và tiềm năng phát triển cao, các ngân hàng thương mại quốc doanh có giá trị thương hiệu rất lớn. Và việc xác định thương hiệu ngân hàng có giá trị là bao nhiêu là rất khó. Ngoài ra, phương pháp dòng tiền
chiết khấu khi tính giá trị ngân hàng thì không đề cập về cách tính giá trị lợi thế kinh doanh, thương hiệu. Vấn đề khác cần quan tâm là việc tính giá trị thương hiệu. Theo quy định hiện hành, giá trị lợi thế kinh doanh về uy tín được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp trên vốn nhà nước tại doanh nghiệp bình quân trong vòng 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá so với lãi suất của trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm định giá. Quy định này không phù hợp khi định giá thương hiệu ngân hàng cả về cơ sở lý thuyết lẫn kiểm định thực tiễn. Việc xác định giá trị lợi thế về uy tín theo quy định trên đối với ngân hàng thương mại sẽ làm cho giá trị thực tế của thương hiệu ngân hàng quá thấp so với tín nhiệm thực tế của ngân hàng trước khách
hàng. Nên khi xác định không đúng giá trị thực tế đặc biệt là tài sản vô hình của ngân hàng sẽ làm giảm giá trị của ngân hàng, gây thiệt hại cho nhà nước.
Các báo cáo định giá của các ngân hàng thương mại quốc doanh đã IPO trong thời gian qua đã minh chứng rất rõ điều này. Các khoản mục của tài sản vô hình không có bất kỳ một ghi nhận nào về giá trị thương hiệu, điều này có nghĩa các ngân hàng cũng như các tổ chức tiến hành định giá ngân hàng đã mặc nhiên bỏ qua giá trị thương hiệu – trong khi đây là phần đóng góp rất lớn trong tổng tài sản của các định chế như ngân hàng thương mại.
Thứ hai, các thương vụ sáp nhập ngân hàng thương mại Việt nam thời gian vừa qua trong gây nhiều tranh xung quanh việc xác định giá trị của ngân hàng bị sát nhập. Điển hình là hai thương vụ sáp nhập của ba ngân hàng thương mại cổ phần là Đệ Nhất, Sài Gòn và Tín Nghĩa thành ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn mỗi cổ phiếu phổ thông của ba ngân hàng cũ sẽ được hoán đổi thành một cổ phiếu SCB của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (ngân hàng mới hợp nhất) theo nguyên tắc ngang bằng mệnh giá, do đây là việc hợp nhất ba ngân hàng của cùng một chủ nên các yếu tố như uy tín, thương hiệu của ba ngân hàng là khác biệt được loại bỏ.
Thương vụ thứ 2 là sáp nhập toàn bộ ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà nội (HBB) vào ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà nội (SHB) và ngân hàng mới là ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà nội (SHB). Theo đề án sáp nhập, tất cả tài sản, nhân viên, khách hàng… của HBB được sáp nhập vào SHB, các cổ đông SHB sở hữu 1 cổ phiếu sẽ được nhận thêm 0,21 cổ phiếu
SHB, còn các cổ đông của HBB sẽ được nhận cổ phiếu SHB với tỷ lệ 0,75, có nghĩa sau khi sáp nhập, cổ đông đang sở hữu 1 cổ phiếu SHB ban đầu sẽ có 1,21 cổ phiếu SHB mới, cổ đông đang sở hữu 1 cổ phiếu HBB sẽ có 0,75 cổ phiếu SHB mới. Như vậy giá trị của mỗi cố phiếu của HBB chỉ bằng 60% giá trị mỗi cổ phiếu của SHB chưa sáp nhập, điều này được xác định trên cơ sở tư vấn định giá cả hai ngân hàng HBB và SHB của công ty chứng khoán ngân hàng ngoại thương và công ty kiểm toán Ernst & Young. Điều đáng nói ở đây là giá trị tài sản vô hình của HBB trong các báo cáo tài chính của trước khi hợp nhất chỉ là chi phí mà HBB đầu tư, nâng cấp và đổi mới vào các tài sản vô hình (59 tỷ vnđ, trang 5 báo cáo tài chính HBB) mà không có giá trị thương hiệu.
Đây là phần là điều thiệt thòi rất lớn cho các cổ đông của HBB khi tiến hành sáp nhập vì hơn 20 năm qua, HBB đã có chỗ đứng khá vững chắc trên thị trường với hệ thống mạng lưới 240 chi nhánh, phòng giao dịch và gần 2000 nhân viên khắp cả nước, có được uy tín lớn với khách hàng cá nhân, nhưng trong các báo cáo tài chính của chính HBB với báo cáo định giá HBB để tính cơ sở sáp nhập thì yếu tố thuộc về thương hiệu HBB không được tính đến. Tiếp đến là các thương vụ của Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Tây với Công ty cổ phần Tài chính Dầu khí, Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà TP Hồ Chí Minh với Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á, yếu tố thương hiệu hầu như không được xem xét trong quá trình sáp nhập. Điều thiệt thòi này khó tránh khỏi vì cơ sở nào cho việc định giá thương hiệu là chính xác và đáng tin cậy, nguồn thông tin ở đâu để có thể tiến hành định giá, từ đó làm cho việc ghi nhận giá trị thương hiệu trong các báo cáo tài chính là điều rất khó khăn.
Định giá thương hiệu ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT