Giải pháp đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống

An Binh Commercial Joint Stock Bank

Mục lục

Giải pháp đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống

1. Tiền gửi tiết kiệm

Các NH cần đẩy mạnh huy động vốn qua tài khoản tiết kiệm, khách hàng thể nhân là đối tượng về lâu dài đem lại nguồn vốn ổn định cho NH (chiếm tỷ trọng từ 30% đến 45% tổng nguồn vốn huy động), nhất là nguồn vốn trung dài hạn. Vì vậy các NHTMVN cần đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở nâng cao hàm lượng công nghệ, tạo tính linh hoạt và thuận tiện cho khách hàng nhằm thu hút vốn từ khách hàng thể nhân. Các NHTMVN cần huy động tối đa các nguồn vốn nhàn dỗi trong nền KT thông qua việc đa dạng hoá các phương thức và hình thức huy động vốn bằng VND và ngoại tệ với các sản phẩm hấp dẫn, linh hoạt với các thủ tục đơn giản dễ hiểu và điều kiện giao dịch thuận tiện. Các sản phẩm đa dạng về loại tiền, loại kỳ hạn, đa dạng phương thức nhận lãi, rút gốc, đa dạng hình thức khuyến mãi, thậm trí kết hợp bán chéo sản phẩm dịch vụ khác … Chú trọng các nguồn tiền gửi tiết kiệm của khách hàng đồng thời đẩy mạnh phát hành giấy tờ có giá, chứng chỉ tiền gửi. Khuyến khích các NHTMVN cạnh tranh huy động vốn chủ yếu dựa vào chất lượng, tính tiện lợi, công nghệ, hiệu quả của dịch vụ huy động vốn, uy tín và mức độ tin cậy của từng NH thay cho hình thức cạnh tranh chủ yếu dựa vào lãi suất, lợi thế qui mô chi phối hoặc độc quyền cung cấp dịch vụ. Tiến tới cho phép các NHTMVN có đủ điều kiện phát hành và niêm yết các công cụ huy động vốn, trái phiếu, cổ phiếu ra thị trường tài chính khu vực và quốc tế.

2. Cho vay

Ở VN, nền KT tăng trưởng nhanh đang tạo thuận lợi cho các NH phát triển tín dụng cho khách hàng cá nhân, không chỉ ở thu nhập, nhu cầu đời sống tiêu dùng ngày càng cao của dân cư mà còn ở cơ sở thực tiễn khác như tâm lý tiêu dùng của người dân, về tiềm năng thị trường… Tuy nhiên doanh số cho vay tín dụng đối với KH cá nhân của các NHTMVN hiện nay còn rất hạn chế, một phần vì các NH đưa ra với các quy định chặt chẽ, nhiều khi không khả thi, đồng thời do sản phẩm dịch vụ còn ít chưa phù hợp với từng phân đoạn KH.Vì vậy, các NHTMVN cần cần có sự nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân đoạn thị trường từ đó đưa ra hệ thống sản phẩm đa dạng phù hợp với mỗi phân đoạn khách hàng hướng tới hình thành thị trường tín dụng cá nhân thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng hơn giữa các NH, tạo cơ hội cho mọi khách hàng cá nhân có nhu cầu vay vốn, làm ăn hợp pháp và có đủ điều kiện trả nợ NH đều có thể tiếp cận vốn vay NH. Các NH cần tập trung nghiên cứu và phát triển các sản phẩm như :

2.1. Cho vay trả góp mua nhà ở

Nhu cầu về nhà ở trong dân cư còn rất lớn, với dân số đông, tỷ lệ dân số ở độ tuổi trẻ chiếm tỷ lệ cao là một thị trường đầy tiềm năng cho các NHTMVN phát triển cho vay trả góp mua nhà (nhà ở gắn liền với đất ở, nhà chung cư) của các dự án bất động sản với thời hạn trả góp dài có thể tới tối đa 20 năm với nhiều hình thức bảo đảm bằng tài sản khác nhau (thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay – Khách hàng và NH phải ký Hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai ngay khi Hợp đồng mua bán nhà, Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng Hợp tác ba bên được ký kết;

Thế chấp, cầm cố bằng tài sản khác như trái phiếu Chính phủ; tín phiếu kho bạc; chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu, sổ tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng của KH vay hoặc của bên thứ ba). Phương thức vay trả góp xác định số tiền trả cố định hàng tháng (bao gồm cả nợ gốc và lãi vay), nợ gốc trả tăng dần theo từng kỳ, lãi vay trả theo dư nợ thực tế, sẽ giúp khách hàng chủ động hơn trong kế hoạch chi tiêu và trả nợ. Khi có những nguồn thu nhập bất thường hoặc được tăng thu nhập thường xuyên, khách hàng được quyền dùng nguồn đó để trả nợ gốc trước hạn giúp làm giảm số tiền trả lãi và thời gian trả nợ. Ngoài việc cung cấp dịch vụ cho vay trả góp mua nhà các NHTM sẽ bán kèm các sản phẩm dịch vụ khác với các ưu đãi khi khách hàng có nhu cầu. Các NHTM có thể tiến hành thoả thuận, ký kết Hợp đồng hợp tác kinh doanh với các chủ đầu tư của các dự án để cho vay khách hàng mua nhà. Đồng thời, hai bên cần thống nhất đưa ra hợp đồng hợp tác ba bên gồm NHTM, chủ đầu tư và khách hàng vay vốn mua nhà. Đặc biệt trong trường hợp chủ đầu tư là đơn vị có uy tín, dự án bất động sản có sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, các NH có nhóm khách hàng mục tiêu rõ ràng và phù hợp, thì việc triển khai dịch vụ này rất khả quan.

2.2. Cho vay trả góp mua ô tô:

Khi xã hội phát triển nhu cầu về phương tiện đi lại, đặc biệt là ô tô riêng sẽ rất phát triển. Nhóm khách hàng mục tiêu mà các NH cần hướng tới là các cá nhân có việc làm, công việc kinh doanh ổn định, thu nhập cao, có thể chứng minh được nguồn thu nhập và có nhu cầu mua sắm ô tô để đi lại không nhằm mục đích kinh doanh vận tải.

Khách hàng sẽ được vay vốn để mua sắm ô tô trong khi tạm thời chưa có đủ khả năng tài chính, được trả góp trong khoảng thời gian nhất định tuỳ thuộc quy định của các NH, thường là 3- 5 năm. Phương thức vay trả góp, với số tiền trả cố định hàng tháng (bao gồm cả nợ gốc và lãi vay), sẽ giúp khách hàng chủ động hơn trong kế hoạch chi tiêu và trả nợ. Khi có những nguồn thu nhập bất thường, khách hàng được quyền dùng trả nợ gốc trước hạn để giảm số tiền trả lãi và thời gian trả nợ. Với loại hình dịch vụ này khách hàng bảo đảm bằng tài sản là tài sản hình thành từ vốn vay hoặc thế chấp, cầm cố bằng tài sản khác của khách hàng hoặc bên thứ ba.

Để phát triển dịch vụ này các NH nên nghiên cứu thị trường, có cơ chế chính sách linh hoạt cho khách hàng, chủ động phối hợp với các nhà cung cấp, đại lí xe để tăng các tiện ích cho khách hàng, phối hợp thực hiện các chương trình khuyến mại, quảng bá sản phẩm, ưu đãi giá, lãi suất..

2.3. Cho vay tín chấp thông thường/cho vay tiêu dùng

Tiềm năng cho vay tín chấp đối với khách hàng tiêu dùng cá nhân ở nước ta rất lớn, nhưng hiện nay nhiều NH vẫn chưa khai thác hết. Đơn cử như ACB là một trong những NHTMCP tiên phong trong lĩnh vực NH bán lẻ, đã triển khai nhiều khoản vay tín chấp, giá trị lên hàng trăm triệu đồng. Hiện hạn mức cho vay dành cho khách hàng cá nhân của ACB lên đến 200 triệu đồng/người. Khách hàng có thu nhập ổn định, chỉ cần có giấy chứng nhận của cơ quan – nơi đang công tác và chứng minh được khả năng trả nợ bằng nguồn thu nhập hàng tháng là có thể vay vốn. Tuy nhiên hiện dư nợ cho vay tín chấp của ACB chỉ chiếm 5% – 10% trên tổng dư nợ của NH. Đặc biệt đối với các NHTMNN thì đối tượng cho vay tín chấp rất hạn chế, chỉ bao gồm các cán bộ đang làm việc trong NH đó hoặc triển khai thêm một vài đơn vị trong cùng lĩnh vực tài chính NH.

Trong khi đó các NH nước ngoài, các tổ chức tài chính nước ngoài đánh giá đây là dịch vụ rất tiềm năng để khai thác trên thị trường VN. Gần đây công ty tài chính Prudential, các NH nước ngoài đang âm thầm tiếp cận thị trường này. Vì vậy, các NHTMVN cần khẩn trương rà soát các quy định hiện hành, ban hành bổ xung các quy định về cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân. Theo đó, cần mở rộng đối tượng cho vay, có sự phân đoạn thị trường rõ ràng, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá mức độ tín nhiệm của KH để có mức cho vay phù hợp hơn cho từng đối tượng khách hàng. Thực hiện liên kết với các công ty bán lẻ, mở quầy cho vay ngay tại các điểm bán lẻ hàng hóa với các quy định về sản phẩm rõ ràng, khi KH cần có thể ký hợp đồng ngay tại điểm mua hàng mà không cần phải đến NH làm thủ tục.

2.4. Cho vay thấu chi tài khoản tiền gửi thanh toán:

Số lượng tài khoản tiền gửi thanh toán ngày càng tăng mạnh tại các NHTM, trong số đó một khối lượng đáng kể khách hàng có nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên hiện nay các NHTMVN hầu như chưa có chính sách cho khách hàng được vay thấu chi trên tài khoản tiền gửi thanh toán. Trong lộ trình đẩy mạnh việc thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ thì số lượng tài khoản sẽ tăng đột biến. Vì vậy các NHTMVN cần khai thác để triển khai dịch vụ cho vay thấu chi từ tài khoản tiền gửi. Đây là dịch vụ cung cấp cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản tiền gửi thanh toán theo thoả thuận trong hợp đồng đã kí với NH không cần đảm bảo bằng tài sản. Khách hàng trả lãi thấu chi hàng tháng theo số tiền, số ngày thấu chi thực tế và lãi suất thấu chi. Dịch vụ này cho phép khách hàng được phép chi vượt số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán với hạn mức thấu chi được cấp trong một khoảng thời gian nhất định. Khách hàng sẽ được tiếp cận vốn vay với thủ tục đơn giản, chủ động trong kế hoạch chi tiêu nhất là trong những trường hợp cần vốn đột xuất. Trước mắt các NHTM có thể triển khai với đối tượng là cán bộ công nhân viên đang làm việc tại các tổ chức KT, xã hội, sau đó triển khai một cách rộng rãi hơn.

2.5. Dịch vụ ứng trước tiền bán chứng khoán

Trong khi chờ tiền bán chứng khoán theo quy định, nhà đầu tư có thể phát sinh nhu cầu vay vốn để chớp lấy cơ hội đầu tư, do đó dịch vụ ứng trước tiền bán chứng khoán của các NHTM cho các nhà đầu tư cá nhân ngày càng phát triển. Đối với dịch vụ này, các NHTM phải có xác nhận và cam kết của công ty chứng khoán về việc lệnh bán chứng khoán của khách hàng đã được khớp lệnh, cam kết quản lý tiền và chứng khoán của khách hàng và chuyển tiền bán chứng khoán ngay cho NH khi có tiền về công ty chứng khoán. Khách hàng và NH có thể thoả thuận mức lãi suất, số tiền được vay. Tuy nhiên trong xu thế cạnh tranh hiện nay các NHTMVN nhất là các NHTMNN phải có một chính sách cực kỳ linh hoạt trong việc cho vay đầu tư chứng khoán.

2.6. Cho vay đối với người lao động VN đi làm việc ở nước ngoài

Với mục đích chi trả các khoản chi phí như tiền đặt cọc, phí dịch vụ trả cho doanh nghiệp được phép cung ứng dịch vụ lao động, vé máy bay, chi phí đào tạo và các chi phí hợp lý khác nhu cầu vay vốn của các cá nhân có hợp đồng lao động xuất khẩu có thời hạn tại nước ngoài ngày càng gia tăng. Hiện nay thị trường xuất khẩu lao động của VN ngày càng mở rộng, các NH mở rộng việc cho vay này thông qua ký thoả thuận hợp tác với các công ty có chức năng xuất khẩu lao động về việc vay vốn và thực hiện các nghĩa vụ trả nợ của cá nhân đi lao động. Thông qua dịch vụ cho vay vốn các NH còn bán chéo được dịch vụ chuyển tiền kiều hối cho các đối tượng này.

2.7. Tín dụng thẻ

Các sản phẩm thẻ đặc biệt là thẻ tín dụng có quan hệ hữu cơ với các dịch vụ khác. Vì vậy cần coi hoạt động kinh doanh thẻ như một sản phẩm dịch vụ cơ bản và quan trọng của NH để có những chính sách đầu tư phát triển hợp lý. Thành lập trung tâm thẻ hoạt động kinh doanh độc lập đảm bảo tính chuyên môn hóa cho từng bộ phận: phát hành, thanh toán, cấp phép, tra soát, quản lý rủi ro…Củng cố các sản phẩm đang có, đẩy mạnh việc phát hành thẻ tín dụng liên kết với các tổ chức/ công ty danh tiếng với mục đích khai thác hiệu quả đối tượng khách hàng chung của các đơn vị với NH. Đơn giản hóa việc phát hành, hiện nay khách hàng phải ký quỹ từ 125% đến 200% hạn mức chi tiêu khi phát hành thẻ tín dụng tùy quy định của từng NH. Tỷ lệ khách hàng được phát hành thẻ tín dụng theo hình thức tín chấp còn rất ít. Việc quy định khách hàng phải ký quỹ sẽ giảm rủi ro cho NH nhưng gây khó khăn cho khách hàng. Vì vậy cần đẩy mạnh việc thẩm định để quyết định phát hành thẻ cho khách hàng trên cơ sở xem xét tính ổn định, uy tín của khách hàng, coi đó là hình thức đảm bảo (tín chấp) một cách linh hoạt và công khai ra thị trường.

Các NHTMVN cũng cần liên kết chặt chẽ hơn nữa với các tổ chức cung ứng hàng hoá, các công ty xây dựng để tăng cường sản phẩm cho vay tiều dùng như cho vay mua ô tô, mua nhà, du học…

3. Phát triển các sản phẩm, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt:

Các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt chiếm khối lượng đáng kể trong hoạt động NHBL. Việc tăng cường các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt phát triển sẽ tiết kiệm chi phí cho xã hội (chi phí in ấn, bảo quản, phát hành, vận chuyển…), tạo cơ sở phát triển dịch vụ thanh toán qua NH, nâng cao khả năng thanh khoản của đồng VN đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nền KT, góp phần hạn chế các giao dịch tiền mặt bất hợp pháp. Khi mà dân số ngày càng tăng nhanh, các giao dịch thanh toán và khối lượng thanh toán ngày càng lớn, sự gia tăng cung ứng các dịch vụ không dùng tiền mặt của các NHTMVN là hết sức cần thiết.

3.1. Chú trọng phát triển dịch vụ thanh toán hóa đơn

Hiện nay ở Việt Nam quá trình xử lý các hóa đơn thanh toán của các ngành dịch vụ như điện lực, nước, điện thoại, môi trường, truyền hình cáp vẫn hết sức thủ công trong khi số lượng hóa đơn ngày càng tăng mạnh mẽ. Đơn cử như ở Viettel mỗi tháng phát hành trung bình 3,5 triệu hóa đơn với 10.000 nhân viên thu ngân và 4.000 công nhân thuê ngoài để thực hiện phát hóa đơn và thu phí theo hình thức thủ công đến tận nhà khách hàng. Và phải mất 45 ngày cho việc hoàn thành 98% số hóa đơn phải thu. Như vậy sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, mất thời gian, không quản trị được chất lượng và không thuận lợi cho khách hàng. Trong khi dân số Việt Nam ngày càng phát triển, các dịch vụ đi kèm sẽ ngày càng tăng và lưu lượng thanh toán ngày càng lớn. Câu hỏi đặt ra là vai trò trung gian thanh toán được thể hiện như thế nào? Các NHTMVN không thể ngoài cuộc. Các NH cần hợp tác chặt chẽ với các đơn vị cung ứng dịch vụ trong việc cung ứng dịch vụ thanh toán hóa đơn. Khi đó hệ thống cơ sở dữ liệu của nhà cung cấp được chuyển tới ngân hàng, ngân hàng sẽ đóng vai trò trung gian trong việc thu và quyết toán chi phí hóa đơn với nhà cung cấp. Lợi ích cho các nhà cung cấp sẽ là: tiết kiệm chi phí, thời gian, tính minh bạch cao, tăng độ thanh khoản, chủ động trong kế hoạch tài chính, và tăng độ thỏa mãn cho khách vị hàng. Đối với NH sẽ tăng lượng khách hàng sử dụng dịch vụ, bán chéo sản phẩm, tăng độ trung thành của khách hàng. Đối với khách hàng sẽ chủ động trong kế hoạch tài chính cá nhân, quản lý tài chính cá nhân khoa học…Đối với xã hội, tạo văn minh trong thanh toán, tiết kiệm chi phí xã hội và thời gian lao động, tăng vòng quay của vốn góp phần vào sự phát triển của xã hội nói chung.

3.2. Các NH cần tập trung đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản tiền gửi và séc thanh toán nội địa

Các NH cần có chiến lược thu hút KH sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân với các thủ tục thuận lợi, an toàn và các tiện ích đa dạng kèm theo để thu hút nguồn vốn rẻ trong thanh toán và tạo cơ sở phát triển các dịch vụ thanh toán thẻ, séc cá nhân. Tăng cường hợp tác chặt chẽ các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức cung ứng dịch vụ, hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ công cộng (siêu thị, nhà hàng, khách sạn, du lịch, công ty cung cấp nước sạch, điện lực, bưu chính viễn thông…). Đặc biệt tập trung đẩy mạnh tuyên truyền lợi ích và thủ tục sử dụng séc thanh toán cá nhân trên phạm vi rộng vì hiện nay tính trung bình trong một NH số lượng KH cá nhân sử dụng tài khoản thanh toán để phát hành séc chỉ tính bằng đơn vị chục. Phát triển dịch vụ tài khoản cá nhân các NH thu hút nguồn vốn rẻ, tạo cơ sở phát triển các dịch vụ thanh toán thẻ, séc cá nhân và các dịch vụ điện tử gia tăng khác nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập và xã hội hóa thanh toán không dùng tiền mặt.

 3.3. Triển khai rộng rãi dịch vụ quản lý tài khoản tiền của nhà đầu tư chứng khoán

Theo Quyết định 27/2007/QĐ – BTC ngày 24/4/2007 kể từ tháng 2/2008, toàn bộ tài khoản tiền để đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư sẽ được chuyển về NH quản lý, tuy nhiên quy định này đã được gia hạn đến tháng 10/2008 với lý do các NH và các công ty chứng khoán chưa có sự triển khai mạnh mẽ và không tương thích về công nghệ. Cho đến nay số lượng tài khoản tiền của nhà đầu tư chứng khoán đang chuyển dần về các NHTM, các NH nên có một lộ trình rõ ràng và nhanh chóng, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện để nhanh chóng kết nối được với các công ty chứng khoán và thu hút tiền của nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán ngày càng phát triển, số lượng nhà đầu tư cá nhân không ngừng tăng, kèm theo đó là danh mục đầu tư của các khách hàng cá nhân ngày càng phong phú. Đây là cơ hội tốt cho các NHTMVN thu hút đối tượng khách hàng này trong việc mở và quản lý tài khoản tiền đầu tư chứng khoán cho các cá nhân khi quy định của Nhà nước yêu cầu các nhà đầu tư phải mở tài khoản giao dịch tại NHTM. Các NHTM sẽ tận dụng được nguồn vốn đáng kể, giá rẻ của các nhà đầu tư trên cơ sở các nhà đầu tư nộp, rút tiền đặt cọc đấu giá, tiền mua bán chứng khoán, nhận cổ tức…ngoài ra các NHTM còn bán chéo các dịch vụ như cho vay tạm ứng tiền bán chứng khoán, cho vay cầm cố chứng khoán niêm yết và chưa niêm yết, các dịch vụ khác của NH…

4. Dịch vụ chuyển tiền kiều hối

Hiện nay các NHTMVN chưa phát huy hết thế mạnh của mình trong việc thu hút nguồn tiền kiều hối từ nước ngoài chuyển về. Đây là một nguồn ngoại tệ dồi đóng góp một phần không nhỏ trong việc gia tăng nguồn vốn, phí dịch vụ cho NH. Vì vậy cần có chính sách khai thác, tạo điều kiện thuận lợi phát triển dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua hệ thống NH và có các biện pháp hữu hiệu để thu hút kiều hối qua hệ thống NH như: tổ chức các chương trình tuyên truyền, quảng cáo về dịch vụ kiều hối và chuyển tiền quốc tế; thiết lập kênh chuyển tiền kiều hối trực tiếp với các NH đại lý ở các quốc gia; liên kết với các công ty chuyển tiền trên thế giới; mở rộng các điểm chi trả kiều hối và các phương thức chi trả kiều hối thuận tiện…NHTM cần “bắt tay” với các công ty xuất khẩu lao động, các công ty dịch vụ kiều hối, tổ chức chuyển tiền ở nước ngoài, các NH đại lý nước ngoài, để thu hút nguồn kiều hối đáng kể chuyển về và gửi ở NH. Đồng thời, các NHTM cần đầu tư thích đáng cho việc phát triển dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua hệ thống SWIFT và các kênh chuyển tiền nhanh khác để thu hút kiều hối qua hệ thống NH. Mở rộng các điểm chi trả kiều hối và các phương thức chi trả kiều hối thuận tiện.Các NH tạo điều kiện thuận lợi phát triển dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua hệ thống NH. Thiết lập kênh chuyển tiền kiều hối trực tiếp với các NH đại lý ở các quốc gia có nhiều người VN sinh sống và làm việc

Giải pháp đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?