Giải pháp Cải cách bộ máy quản lý thuế

Phương pháp phân tích tài chính

Mục lục

Giải pháp Cải cách bộ máy quản lý thuế

Bộ máy quản lý thuế là khâu rất quan trọng trong công tác quản lý thu thuế. Bộ máy quản lý thuế được tổ chức hợp lý, thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý thuế sẽ phát huy được tối đa hiệu lực của toàn bộ hệ thống thuế và ngược lại sẽ kìm hãm, làm suy yếu tổ chức và hạn chế tác dụng của bộ máy.

Bộ máy quản lý thu thuế của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn gắn liền với các giai đoạn phát triển của đất nước. Từ năm 1990, để thống nhất công tác quản lý thu thuế trong cả nước, phù hợp với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì bộ máy quản lý thu thuế được tổ chức theo sắc thuế ở cấp Trung ương và quản lý theo đối tượng bằng phương pháp chuyên quản khép kín ở địa phương. Đến năm 2004, thực hiện quyết định 218/2003/QĐ-TTg, bộ máy quản lý thu thuế được tổ chức lại chủ yếu theo chức năng quản lý thuế, tuy nhiên vẫn còn đan xen quản lý theo đối tượng và quản lý theo chức năng nên hiệu quả cũng còn hạn chế.

Mô hình quản lý theo chức năng là mô hình đang được áp dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế phát triển, đến thời điểm này có thể khẳng định đây là mô hình có nhiều ưu điểm nhất. Theo mô hình này, bộ máy quản lý thuế được tổ chức thành những bộ phận cơ bản như: bộ phận tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế; bộ phận quản lý nợ và cưỡng chế thuế; bộ phận thanh tra kiểm tra; bộ phận xử lý tờ khai…

Thực chất từ năm 2004, khi Việt Nam áp dụng cơ chế “Tự khai, tự nộp” là một bước thí điểm về mô hình quản lý thuế theo chức năng. Việc áp dụng cơ chế “Tự khai, tự nộp” đã đạt được những thành nhất định và sẽ được triển khai rộng trong năm 2007 theo luật Quản lý thuế. Tuy nhiên, khi triển khai rộng cơ chế “Tự khai tự nộp” đòi hỏi phải thỏa mãn một số điều kiện áp dụng nhất định:

– Người dân phải có hiểu biết cơ bản về thuế, đối tượng nộp thuế phải hiểu rõ chính sách thuế để thực hiện đúng nghĩa vụ.

– Hệ thống xử phạt phải nghiêm minh và công bằng.

– Thanh tra thuế và cưỡng chế thuế phải có hiệu quả.

Vì vậy, để cơ chế “Tự khai, tự nộp” thực sự phát huy tác dụng tích cực thì phải tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các bộ phận quan trọng.

1. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền hỗ trợ thuế

Khi thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thì công tác tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế là một trong những biện pháp, công cụ quan trọng để đạt tới mục đích là sự tuân thủ tự nguyện một cách cao nhất của đối tượng nộp thuế. Khi đối tượng nộp thuế tự nguyện thì công tác quản lý thu thuế sẽ dễ dàng hơn, hạn chế tình trạng thất thu ngân sách.

Hiện nay, Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng hệ thống pháp luật, pháp luật là phương tiện chủ yếu để Nhà nước tác động lên các quan hệ xã hội, điều chỉnh sự phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi giai đoạn cụ thể. Pháp luật về thuế là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật nhà nước mà mọi người dân nói chung và người nộp thuế nói riêng phải chấp hành. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang quá triønh phát triển nên chính sách thuế cũng thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp, bên cạnh đó đối tượng nộp thuế không có hoặc chưa có điều kiện nắm bắt kịp thời, không hiểu hết các thủ tục và nghĩa vụ thuế của mình.

Theo cơ chế tự khai, tự nộp, cơ quan thuế chuyển đổi từ việc chủ yếu dùng quyền lực quản lý sang hỗ trợ, phục vụ để đối tượng nộp thuế thực hiện đúng nghĩa vụ thuế. Cơ quan thuế cần nhìn nhận người nộp thuế như một khách hàng, là đối tượng phục vụ của mình. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách thuế cho đối tượng nộp thuế nhằm làm cho các tổ chức, cá nhân nắm bắt được các quy định về thuế, hiểu rõ được bản chất tốt đẹp và ý nghĩa quan trọng của việc nộp thuế, đó là nghĩa vụ và quyền lợi của đối tượng nộp thuế. Mọi hành vi gian lận trốn thuế không chỉ là vi phạm pháp luật thuế mà còn vi phạm đạo đức công dân, xã hội lên án. Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ nhằm đạt kết quả tốt hơn cần phải có giải pháp tích cực:

– Đối với đơn vị mới thành lập, khi tiến hành đăng ký thuế thì cơ quan thuế có thể phát những tờ bướm giới thiệu khái quát về những nghĩa vụ thuế mà đơn vị phải thực hiện, giới thiệu những văn bản pháp quy về thuế còn hiệu lực thi hành có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, những địa chỉ mà đơn vị có thể tìm những văn bản về thuế để đối tượng nộp thuế có thể nhanh chóng nắm bắt khái quát quy định về thuế.

– Tăng cường dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế để giải đáp những thắc mắc, yêu cầu của đối tượng nộp thuế, đặc biệt là giáo dục thái độ phục vụ của cán bộ thuế, cần phải xem đối tượng nộp thuế là khách hàng được phục vụ và cũng cần ý thức rằng tiền lương cán bộ thuế lãnh hàng tháng chính là tiền thuế để cán bộ thuế có thái độ phục vụ đúng mực.

– Phát triển, mở rộng hoạt động của mạng lưới WEBSITE ngành thuế và liên tục cập nhật thông tin văn bản mới một cách kịp thời để mọi người có thể nhanh chóng tiếp nhận thông tin về thuế để có thể chấp hành nghĩa vụ thuế tốt nhất.

– Phối hợp chặt chẽ với cơ quan thông tin đại chúng như cơ quan văn hóa thông tin, đài truyền hình, báo… để thường xuyên thực hiện việc tuyên truyền về thuế, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền hỗ trợ.

– Đưa nội dung tuyên truyền về thuế vào nội dung giáo dục tại các cấp phổ thông trung học, cao đẳng, đại học và tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về thuế để giáo dục ý thức nộp thuế từ nhỏ cho các sinh viên, học sinh.

– Đào tạo đội ngũ cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền hỗ trợ để có những kỹ năng, kiến thức cần thiết. Bên cạnh đó, cần tăng cường thêm lực lượng làm công tác tuyên truyền vì theo kinh nghiệm các nước đã thành công trong cơ chế “Tự khai tự nộp” thì lực lượng cán bộ làm công tác tuyên truyền phải đạt tỷ lệ khoảng 25%, trong khi đó số lượng cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền hỗ
trợ ở Việt Nam chỉ khoảng 5% [41, tr 117].

– Thường xuyên tổ chức các cuộc phổ biến pháp luật về thuế, các cuộc đối thoại với đối tượng nộp thuế để kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của đối tượng nộp thuế.

– Tiến hành một số cuộc điều tra thống kê trên địa bàn cả nước để xác định nhu cầu của đối tượng nộp thuế về tuyên truyền hỗ trợ để từ đó có thể đưa ra những hình thức tuyên truyền thích hợp.

2. Hoàn thiện thanh tra, kiểm tra thuế

Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau. Mỗi sắc thuế trước khi ban hành đều đã được nghiên cứu và chuẩn bị chu đáo nhưng nền kinh tế nước ta luôn vận động nên các sắc thuế không tránh khỏi những khiếm khuyết, đây chính là nguyên nhân để đối tượng nộp thuế lợi dụng. Với mô hình quản lý thuế hiện đại theo cơ chế “Tự khai, tự nộp” thì công tác thanh tra, kiểm tra có vai trò rất quan trọng trong việc giám sát đối tượng nộp thuế chấp hành pháp luật thuế. Qua công tác thanh tra, kiểm tra có thể phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật thuế để có những biện pháp chế tài thích hợp nhằm răn đe, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, thông qua công tác thanh tra, kiểm tra để phát hiện những khiếm khuyết của hệ thống chính sách thuế để điều chỉnh cho phù hợp hơn.

Để thực sự phát huy vai trò của mình trong quản lý thu thuế thì công tác thanh tra, kiểm tra cần phải được cải cách:

– Tổ chức bộ máy thanh tra thành 2 cấp: bộ phận thanh tra cấp trung ương trực thuộc Tổng cục thuế và bộ phận thanh tra địa phương trực thuộc cơ quan thuế địa phương. Bộ phận thanh tra cấp trung ương sẽ không trực tiếp thực hiện thanh tra tại các doanh nghiệp, mà chỉ giữ vai trò chỉ đạo các hoạt động thanh tra, ban hành các hướng dẫn thống nhất về phương pháp thanh tra… Bộ phận
thanh tra cấp địa phương tổ chức thành: bộ phận thanh tra doanh nghiệp lớn; bộ phận thanh tra doanh nghiệp vừa và nhỏ; bộ phận thanh tra liên tỉnh; bộ phận thanh tra đối với đối tượng nộp thuế là cá nhân.

– Đối với hoạt động thanh tra thì thông tin về đối tượng nộp thuế có tác động trực tiếp đến hiệu quả thanh tra. Do đó, bộ phận thanh tra cần xây dựng hệ thống thông tin đầy đủ về đối tượng nộp thuế như: ngành nghề kinh doanh, quy mô kinh doanh, mức độ chấp hành nộp thuế để từ những thông tin này có thể phân tích, đánh giá, phân loại đối tượng nộp thuế từ mức độ rủi ro cao đến mức
độ rủi ro thấp để lập kế hoạch thanh tra. Khi đã có hệ thống thông tin đầy đủ về đối tượng nộp thuế nên chuyển từ cơ chế thanh tra nhằm vào tất cả các đối tượng nộp thuế sang cơ chế thanh tra theo mức độ vi phạm về thuế, chỉ những đối tượng có hành vi gian lận thì mới thanh tra, không có gian lận thì không thanh tra (gọi là thanh tra theo mức độ rủi ro) nhằm không gây phiền hà, cản trở công
việc kinh doanh của đối tượng nộp thuế.

– Thực hiện chuyên môn hóa công tác thanh tra: bố trí cán bộ thanh chuyên môn hóa theo từng ngành nghề kinh doanh để có thể tìm hiểu sâu hơn, rõ hơn đặc điểm kinh doanh của từng ngành nghề, từ đây có điều kiện so sánh giữa các đối tượng nộp thuế trong cùng ngành nghề để phát hiện gian lận thuế một cách kịp thời. Song song đó cần phân loại các trường hợp thanh tra kiểm tra
tại cơ quan thuế và trường hợp thanh tra kiểm tra tại trụ sở đối tượng nộp thuế. Thanh tra kiểm tra tại cơ quan thuế có thể được thực hiện thường xuyên đối với các trường hợp như: hồ sơ đăng ký thuế, kê khai thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế. Khi cơ quan thuế kiểm tra phát hiện sai sót hoặc có nghi vấn thì yêu cầu đối tượng nộp thuế giải trình, bổ sung. Nếu đối tượng nộp thuế không giải trình bổ sung hoặc giải trình không hợp lý thì cơ quan thuế mới ra quyết định thanh tra tại trụ sở đối tượng nộp thuế.

– Ngày nay hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng mở rộng, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin nên để công tác thanh tra đạt hiệu quả phải không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng thanh tra cho cán bộ làm công tác thanh tra và xây dựng lực lượng thanh tra đủ mạnh đáp ứng yêu cầu thanh tra. Theo kinh nghiệm các nước thì lực lượng thanh
tra phải đạt khoảng 30% số lượng cán bộ thì mới có thể thực tốt vai trò của mình, trong khi đó lực lượng thanh tra của Việt Nam chỉ mới khoảng 16% [41, tr 137].

3. Đổi mới công tác thu nợ và cưỡng chế thuế

Quản lý nợ và cưỡng chế thuế có vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức tuân thủ, đảm bảo đối tượng nộp thuế nộp đủ các khoản nợ thuế, đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế, chống thất thu cho ngân sách nhà nước, nhất là thực hiện cơ chế “Tự khai, tự nộp”

Để phát huy vai trò của mình, công tác quản lý nợ và cưỡng chế thuế cần được đổi mới:

– Ban hành kịp thời các văn bản pháp quy liên quan đến công tác thu nợ và cưỡng chế thuế cho phép đối tượng nộp thuế có thể nộp dần số nợ thuế vào ngân sách nhà nước.

– Xây dựng các biện pháp hữu hiệu để có thể thu được tiền nợ thuế như: trước tiên có thể dùng các biện pháp để gây sức ép lên hoạt động kinh doanh của đối tượng nộp thuế để buộc phải nộp thuế như không bán hóa đơn, không cho phép ký kết hợp đồng kinh tế nếu không có giấy chứng nhận đã nộp thuế, thông báo cho các tổ chức tín dụng và thông báo trên phương tiện thông tin đại
chúng về tình trạng nợ thuế của đối tượng; nếu đối tượng nợ thuế vẫn không chấp hành có thể sử dụng biện pháp mạnh hơn như tịch biên tài sản và bán để thu nợ.

– Xây dựng các quy trình về nghiệp vụ thu nợ và cưỡng chế thuế để theo dõi chính xác số thuế nợ của từng đối tượng nộp thuế và thu nợ có hiệu quả, có thể khái quát thành 4 bước như sau: (1) Thông báo và yêu cầu nộp thuế, (2) Ra lệnh thu thuế, (3) Bán tài sản tịch biên, (4) Trả nợ thuế bằng số tiền thu được từ việc bán tài sản.

– Thành lập bộ phận chuyên trách về công tác thu nợ và cưỡng chế thuế ở các cơ quan thuế và xây dựng lực lượng phù hợp với yêu cầu. Theo kinh nghiệm các nước thì lực lượng thu nợ và cưỡng chế phải đạt tỷ lệ khoảng 10% [41, tr 137].

4. Đẩy mạnh ứng dụng tin học trong công tác quản lý thuế

Kinh tế trong những năm gần đây đã phát triển với tốc độ cao theo xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Internet và công nghệ thông tin, theo đó phát sinh những hình thức kinh doanh mới như thương mại điện tử, bán hàng, thanh toán qua mạng, quản trị kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng tin học hóa. Với sự phát triển này đã và sẽ tiếp tục tạo áp lực lớn đối với hệ thống quản lý thu thuế, để đáp ứng được nhiệm vụ quản lý thuế trong thời kỳ mới, ngành thuế buộc phải đẩy mạnh tiến độ hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ tin học để tạo khả năng thích ứng cao và khả năng xử lý, phân tích được khối lượng thông tin khổng lồ, kết nối thông tin trong nội bộ ngành thuế, với các quốc gia để quản lý được đối tượng nộp thuế. Bên cạnh đó, ngành thuế cũng phải ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cung cấp thông tin pháp luật thuế cho đối tượng nộp thuế một cách nhanh chóng, thuận lợi để đối tượng nộp thuế tự giác chấp hành nghĩa vụ thuế theo cơ chế “tự khai – tự nộp”.

Việc ứng dụng tin học trong ngành thuế đã được triển khai từng bước và góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế như:

– Đã xây dựng hệ thống mạng máy tính kết nối 64 Cục thuế với 2 trung tâm máy tính là Tổng cục thuế và Cục thuế Tp.Hồ Chí Minh.

– Đã xây dựng và triển khai toàn ngành thuế các phần mềm để xử lý nghiệp vụ: đăng ký thuế, cấp mã số thuế, xử lý tờ khai thuế, tính thuế, tính nợ, tính phạt và xử lý báo cáo kế toán, thống kê thuế. Bước đầu đã đưa trang WEB ngành thuế ra Internet để cung cấp các thông tin về chính sách, chế độ thuế.

– Bước đầu đã hình thành cơ sở dữ liệu tại từng cấp để phục vụ cho việc khai thác, phân tích thông tin quản lý như thông tin về đối tượng nộp thuế, tờ khai thuế, chứng từ nộp thuế, báo cáo kế toán…

Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào một số chức năng chủ yếu của quản lý thuế như tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế, thanh tra kiểm tra thuế còn chưa được đáp ứng. Với việc triển khai bộ máy quản lý thuế theo chức năng thì việc ứng dụng công nghệ thông tin là một trong những yếu tố góp phần không nhỏ đến sự thành công của công cuộc cải cách thuế. Đối với Việt Nam, khi ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế cần quan tâm đến những vấn đề sau:

– Đẩy nhanh việc ứng dụng và phát triển tin học, cần lựa chọn lĩnh vực ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin để tránh đầu tư lãng phí, nên ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực thuế điện tử vì khi thương mại hóa quốc tế thì các hình thức kinh doanh mua bán, thanh toán qua mạng sẽ phát triển rất nhanh, nếu ngành thuế không nắm bắt kịp thời tình hình để quản lý hữu hiệu sẽ
tất yếu dẫn đến thất thu ngân sách.

– Xây dựng ngân hàng dữ liệu về tình hình hoạt động, tình trạng kê khai, nộp thuế và tình hình tài chính của từng đối tượng nộp thuế để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra thuế.

– Xây dựng phần mềm để phân tích thông tin về tình hình nộp thuế, tình hình sản xuất kinh doanh và phân tích kinh tế ngành để lựa chọn những trường hợp, hiện tượng có nghi ngờ về thuế.

– Xây dựng phần mềm để hỗ trợ, theo dõi, phân tích đánh giá các khoản nợ, loại nợ, lập kế hoạch thu nợ, đôn đốc nợ.

– Xây dựng phần mềm theo dõi, quản lý việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thu nợ, quản lý việc cưỡng chế thuế.

– Xây dựng phần mềm tra cứu hóa đơn trong ngành thuế để các cơ quan thuế trong cả nước có thể xác minh nhanh chóng, chính xác hóa đơn đầu vào, đầu ra của các hồ sơ hoàn thuế hoặc kiểm tra các trường hợp gian lận về thuế.

– Đối với ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác hỗ trợ đối tượng nộp thuế:

+ Cải tiến nội dung trang WEB ngành thuế trên Internet, cập nhật thông tin nhanh, thiết thực phục vụ đối tượng nộp thuế, mở rộng hỏi đáp qua mạng.

+ Xây dựng dữ liệu hướng dẫn các chính sách thuế, thủ tục kê khai, nộp thuế một cách đầy đủ.

+ Xây dựng ngân hàng dữ liệu về các doanh nghiệp bỏ trốn, các số hóa đơn không còn giá trị sử dụng.

+ Từng bước thí điểm kê khai, nộp thuế qua mạng để giảm thời gian, thủ tục nộp thuế

Giải pháp Cải cách bộ máy quản lý thuế

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?