Mục lục
Giải pháp hoàn thiện Thuế Thu nhập cá nhân
Thuế Thu nhập cá nhân là sắc thuế không thể thiếu trong hệ thống thuế của các nước vận động theo cơ chế thị trường. Thuế Thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, được Nhà nước sử dụng như một công cụ hữu hiệu để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện điều hòa và phân phối lại thu nhập. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển thì số thu từ thuế Thu nhập cá nhân chiếm tỷ trọng khá cao lên đến 30-40% trong tổng thu ngân sách như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức [24, tr 8], ngay cả các nước trong khối ASEAN thì số thu từ thuế Thu nhập cá nhân cũng chiếm tỷ trọng khoảng 12-16% trong tổng thu ngân sách và đang có xu hướng tăng dần như Thái Lan, Malaysia, Philippine [24, tr 8]. Trong khi đó tỷ trọng thu thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam còn khá khiêm tốn trong tổng thu (xem bảng 2.11). Có nhiều nguyên nhân khiến thuế Thu nhập cá nhân của Việt Nam chưa phải là loại thuế chiếm tỷ trọng cao như: thu nhập bình quân đầu người còn thấp (trong năm 2006 chỉ mới đạt khoảng 725,3 USD [40, tr 76]), chưa bao quát nguồn thu, cơ chế hành thu còn yếu nên chưa kiểm soát được hết thu nhập.
Theo xu hướng chung trên thế giới và định hướng hoàn thiện hệ thống thuế của Việt Nam thì thuế Thu nhập cá nhân sẽ chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách (mục tiêu đặt ra đến năm 2010 thuế Thu nhập cá nhân tối thiểu phải đảm bảo tỷ trọng trên 10% trong tổng số thu thuế và phí [41, tr 34]). Tuy nhiên, thuế Thu nhập cá nhân là thuế trực thu, liên quan trực tiếp đến thu nhập của cá nhân, nên nó ảnh hưởng nhất định đối với việc thu hút vốn đầu tư theo chiến lược công nghiệp hóa, đặc biệt là thu hút nguồn nhân lực có trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật cao. Để có thể vừa phát huy vai trò là nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn trong tương lai, vừa là công cụ thu hút vốn đầu tư, thu hút nguồn nhân lực, thực hiện công bằng bình đẳng, thuế Thu nhập cá nhân cần được hoàn thiện
hơn nữa. Do pháp lệnh thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao sẽ được thay thế bằng luật thuế Thu nhập cá nhân và dự luật thuế Thu nhập cá nhân đang trong quá trình hoàn thiện để Quốc hội thông qua và được áp dụng từ 01/01/2009 nên luận án chỉ tập trung phân tích, góp ý hoàn thiện dự luật thuế Thu nhập cá nhân.
* Đối tượng nộp thuế
– Đối tượng nộp thuế theo dự luật đã được phân biệt theo tiêu thức cư trú và không cư trú để xác định nghĩa vụ nộp thuế: đối tượng cư trú nộp thuế đối với toàn bộ thu nhập, còn đối với đối tượng không cư trú thì chỉ nộp thuế đối với phần thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Cá nhân được xác định là cư trú ở Việt Nam theo dự luật quy định phải có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong
năm dương lịch. Tuy nhiên, dự luật chưa đề cập đến trường hợp nếu một cá nhân được xác định đồng thời là đối tượng cư trú tại Việt Nam theo luật thuế Việt Nam và cũng là đối tượng cư trú ở một nước khác theo luật thuế của nước đó (Ví dụ: Luật thuế Thu nhập cá nhân của Thái Lan quy định đối tượng cư trú ở Thái Lan là đối tượng có mặt ở Thái Lan từ 180 ngày trở lên).
Trong điều kiện mở cửa kinh tế hiện nay thì cá nhân có thể làm việc ở nhiều nơi, phát sinh thu nhập ở nhiều nơi trong một năm nên sẽ dẫn đến việc tranh chấp nguồn thu giữa các nước. Vì vậy, dự luật thuế Thu nhập cá nhân cần xem xét bổ sung thêm một số điều kiện để xác định là cư trú hay không cư trú tại Việt Nam, để đảm bảo phù hợp với Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần giữa Việt Nam với các nước, dự luật nên quy định thêm tiêu chí cá nhân được xác định là cư trú ở Việt Nam như: cá nhân được xác định là cư trú ở Việt Nam khi có mặt tại Việt Nam từ 183 trở lên trong năm dương lịch hoặc có nhà ở chính ở Việt Nam, có tài sản tại Việt Nam.
– Dự luật thuế Thu nhập cá nhân chỉ mới bổ sung đối tượng nộp thuế là cá nhân kinh doanh đang nộp thuế theo quy định của luật thuế Thu nhập doanh nghiệp sang nộp thuế Thu nhập cá nhân, nhưng chưa đề cập đến doanh nghiệp tư nhân. Quy định này chưa thật hợp lý vì theo Luật Doanh nghiệp quy định: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế”. Như vậy, thực chất thì thu nhập của doanh nghiệp tư nhân là thu nhập không phân phối (là thu nhập của cá nhân) nên thu nhập này cũng cần phải được đối xử như thu nhập của cá nhân kinh doanh, không nên đánh thuế thu nhập của doanh nghiệp tư nhân như các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân khác. Vì vậy, nên chuyển doanh nghiệp tư nhân sang nộp thuế Thu nhập cá nhân để thống nhất với cá nhân kinh doanh,
* Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế Thu nhập cá nhân theo dự luật được chia thành 6 loại:
– Thu nhập từ kinh doanh.
– Thu nhập từ tiền công, tiền lương, thù lao, các khoản thu nhập mang tính chất tiền lương, tiền công.
– Thu nhập từ đầu tư vốn gồm lãi cho vay, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, lãi trái phiếu, tín phiếu, lợi tức từ các hình thức góp vốn khác.
– Thu nhập từ chuyển nhượng vốn.
– Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản.
– Thu nhập khác.
Theo thông lệ thế giới, để thu thuế thu nhập một cách công bằng và hiệu quả thì việc phân chia thu nhập chịu thuế dựa trên các nguyên tắc:
– Thứ nhất, căn cứ vào tính chất của từng loại thu nhập, mỗi loại thu nhập do tính chất khác nhau nên sức chịu đựng thuế cũng khác nhau. Đánh thuế theo tính chất của từng loại thu nhập sẽ đảm bảo sự công bằng về nghĩa vụ thuế.
– Thứ hai, xem xét đến khả năng động viên đối với từng loại thu nhập, điều đó có nghĩa là Nhà nước định hướng động viên như thế nào đối với từng loại thu nhập, mức động viên là bao nhiêu để phát huy tác dụng tích cực của thuế.
– Thứ ba, căn cứ vào khả năng quản lý của các loại thu nhập, dựa vào tiêu thức này có thể nắm bắt được nguồn hình thành thu nhập và khả năng có thể động viên được mức độ bao nhiêu từ nguồn thu nhập này.
Khi xem xét 3 nguyên tắc phân chia nguồn thu nhập trên thế giới thì cách phân chia thu nhập ở Việt Nam bộc lộ một số nhược điểm:
– Đối với thu nhập từ làm công có đặc điểm là không trực tiếp bỏ ra chi phí mà chỉ thông qua hợp đồng lao động để nhận được thu nhập. Nhưng đối với thu nhập từ kinh doanh là khoản thu có tính chất chủ động, người kinh doanh muốn tiến hành hoạt động kinh doanh phải có vốn, trong quá trình kinh doanh phải bỏ ra chi phí mua sắm trang thiết bị, vật tư để nhận được một khoản thu nhập từ hoạt động kinh doanh và có nghĩa vụ phải nộp thuế Thu nhập cá nhân đối với phần thu nhập nhận được. Tuy nhiên, không phải trong tất cả trường hợp kinh doanh đều có lãi, vậy trường hợp cá nhân kinh doanh bị lỗ thì hướng giải quyết thế nào chưa thấy dự luật đề cập. Để đảm bảo công bằng, khuyến khích cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh theo định hướng của Đảng và Nhà nước, luật thuế Thu nhập cá nhân nên cho phép trường hợp cá nhân kinh doanh bị lỗ thì số lỗ này được phép chuyển sang cấn trừ với thu nhập chịu thuế kỳ kế tiếp. Bên cạnh đó, luật thuế Thu nhập cá nhân cũng cần xem xét đến yếu tố ưu đãi đối với cá nhân đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề được Nhà nước khuyến khích để sắc thuế Thu nhập cá nhân phát huy vai trò tích cực của mình trong thu hút vốn đầu tư và đảm bảo công bằng với doanh nghiệp hoạt động theo luật Doanh nghiệp.
– Dự luật thuế Thu nhập cá nhân quy định thu nhập từ lợi tức cổ phần, lợi tức từ các hình thức góp vốn kinh doanh thuộc diện chịu thuế. Quy định đã dẫn đến tình trạng thuế Thu nhập cá nhân đánh trùng với thuế Thu nhập doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến sự lựa chọn đầu tư của đối tượng nộp thuế: góp vốn cổ phần hay cho vay, chia lợi tức cổ phần hay không chia để bổ sung các quỹ mở
rộng kinh doanh. Từ những quan điểm trên nhiều nước trên thế giới đã xử lý theo các hình thức:
+ Nếu đánh thuế ở cấp độ công ty thì cổ tức, lợi nhuận được chia của cá nhân không phải kê khai nộp thuế Thu nhập cá nhân.
+ Nếu đánh thuế ở cấp độ cổ đông thì phần thu nhập chia cho cổ đông không bị đánh thuế ở cấp độ công ty.
+ Đánh thuế ở cả 2 cấp độ nhưng cho phép cổ đông được khấu trừ thuế đã nộp ở công ty.
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam thì chỉ nên áp dụng hình thức đánh thuế ở cấp độ công ty, tức là không đưa thu nhập từ lợi tức cổ phần vào diện chịu thuế Thu nhập cá nhân để đảm bảo công bằng, vừa dễ quản lý vừa khuyến khích người dân đầu tư.
* Giảm trừ gia cảnh
Dự luật thuế Thu nhập cá nhân quy định đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công được giảm trừ gia cảnh trước khi tính thuế. Quy định này đã tạo ra một sự không công bằng giữa các đối tượng nộp thuế (là mục tiêu quan trọng mà luật thuế Thu nhập cá nhân hướng đến), vì nếu một cá nhân không kinh doanh, không làm việc hưởng lương mà chỉ tham gia các hoạt động đầu tư vốn, chuyển nhượng bất động sản… để tạo thu nhập thì theo dự luật lại không được giảm trừ gia cảnh.
Để thuế Thu nhập cá nhân thật sự công bằng, bình đẳng, điều tiết thu nhập sâu sát, hợp lý, là công cụ thu hút vốn đầu tư nên cho phép giảm trừ gia cảnh cho tất cả các đối tượng nộp thuế, tuy nhiên cũng cần quy định rõ các cá nhân có nhiều nguồn thu nhập cũng chỉ được giảm trừ gia cảnh một lần.
* Chi phí được khấu trừ đối với cá nhân kinh doanh
– Đối với cá nhân kinh doanh, thu nhập chịu thuế được xác định bằng cách lấy doanh thu trừ các chi phí liên quan trực tiếp đến việc tạo ra doanh thu trong kỳ tính thuế. Có 02 nguyên tắc cơ bản trong việc xác định thu nhập chịu thuế của cá nhân kinh doanh, đó là:
+ Thứ nhất, thu nhập chịu thuế phải là thu nhập ròng, tức là các khoản chi phí phát sinh để có được thu nhập phải được khấu trừ.
+ Thứ hai, cá nhân sản xuất kinh doanh không được phép khấu trừ các khoản chi phí cho cá nhân khi xác định thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh vì đây không phải là chi phí phát sinh để tạo ra thu nhập.
Dự luật thuế Thu nhập cá nhân của Việt Nam cũng đã liệt kê một loạt các khoản chi phí được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của cá nhân kinh doanh. Tuy nhiên, thực tế hiện nay các khoản chi của cá nhân kinh doanh thường không có hóa đơn, chứng từ và có một số khoản chi phí rất khó phân biệt rạch ròi giữa chi cho cá nhân với chi phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (như
nhà ở, các khoản chi điện thoại, máy tính) nên việc xác định chi phí được khấu trừ là rất khó và phức tạp.
Để xác định các khoản chi được khấu trừ của cá nhân kinh doanh một cách chính xác, hợp lý thì cơ quan thuế cần yêu cầu cá nhân kinh doanh phải mở sổ sách kế toán để theo dõi tình hình hoạt động sản xuất kinh và cá nhân tự khai, tự nộp thuế theo nguyên tắc các khoản chi phí được khấu trừ phải có hoá đơn chứng từ, những khoản chi này phải phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và
trong định mức cho phép. Đối với những khoản chi mang tính chất đặc thù vừa dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh vừa dùng cho cá nhân thì cơ quan thuế cần kết hợp với Ban tư vấn thuế phường xã tiến hành điều tra, khảo sát hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành nghề để có cơ sở ban hành những tiêu chuẩn, định mức được khấu trừ cụ thể ở từng địa phương (như nhà ở chỉ được tính chi phí khấu hao vào chi phí kinh doanh theo tỷ lệ diện tích nhà có phục vụ kinh doanh).
Đối với những cá nhân kinh doanh không thực hiện mở sổ kế toán thì phải nộp thuế theo mức thuế khoán ổn định. Và để hạn chế tình trạng cán bộ thuế lợi dụng chức quyền tùy tiện áp đặt nghĩa vụ thuế dẫn đến tiêu cực thì việc xác định mức thuế khoán ổn định phải có sự kết hợp giữa chính quyền phường xã (Hội đồng tư vấn thuế phường xã) với cơ quan thuế trong việc điều tra, khảo sát, phân loại để xây dựng mức thuế khoán phù hợp với từng ngành nghề, địa bàn kinh doanh và mức thuế khoán này phải được công khai nhằm đảm bảo công bằng dân chủ về nghĩa vụ thuế vì qua việc công khai mức thuế khoán sẽ giúp các ngành, các cấp và nhân dân cùng giám sát để hạn chế đến mức thấp nhất sự tùy tiện, tiêu cực của cán bộ thuế.
– Để khuyến khích mọi người cùng hỗ trợ cho giáo dục, thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, luật thuế Thu nhập cá nhân nên cho phép cá nhân được khấu trừ một số khoản đóng góp cho giáo dục nếu những khoản đóng góp này có chứng từ đầy đủ.
* Tổ chức quản lý thu thuế
Việc kiểm soát thu nhập của cá nhân có vai trò rất quan trọng trong thu thuế Thu nhập cá nhân, việc kiểm soát thu nhập thông thường được chia thành 2 phương pháp chủ yếu:
– Phương pháp kiểm tra từ nguồn phát sinh thu nhập thông qua các quy định mang tính bắt buộc về khai báo đối với tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập, kiểm soát tài khoản ngân hàng, bắt buộc ghi chép sổ sách kế toán.
– Phương pháp kiểm soát thu nhập thông qua việc sử dụng thu nhập. Do có một số ngành nghề tự do, khó có căn cứ để xác định thu nhập từ nguồn phát sinh nên cơ quan có quyền ấn định mức thu nhập của đối tượng nộp thuế thông qua biểu hiện bên ngoài về mức sinh hoạt.
Thông thường, các nước trên thế giới thực hiện thu thuế Thu nhập cá nhân theo phương thức thứ nhất, tức khấu trừ tại nguồn do việc mở tài khoản cá nhân cũng như việc thanh toán, chi trả chủ yếu thông qua tài khoản cá nhân và ý thức của người dân cao nên việc kiểm soát thu nhập để tính thuế tương đối chặt chẽ.
Đối với Việt Nam, cơ chế quản lý thu thuế Thu nhập cá nhân cũng tập trung theo phương thức khấu trừ tại nguồn, tuy nhiên, công tác quản lý thu nộp chỉ mới thực hiện đối với thu nhập thường xuyên có nguồn gốc phát sinh từ việc chi trả thu nhập tại cơ quan, doanh nghiệp, văn phòng đại diện, còn hầu hết các khoản thu nhập từ các ngành nghề tự do thì chưa kiểm soát được chặt chẽ nên
dẫn đến thất thu ngân sách.
Để thuế Thu nhập cá nhân là một khoản thu quan trọng trong tổng thu, đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế, cơ chế quản lý thu cần hoàn thiện, như:
– Cho tiến hành đăng ký mã số thuế đối với cá nhân có thu nhập.
– Thực hiện cơ chế tự khai: tất cả cá nhân phải có trách nhiệm kê khai với cơ quan thuế toàn bộ các khoản thu nhập vào thời gian đầu năm sau năm phát sinh thu nhập để tổng hợp so sánh số tạm nộp, thuế phải nộp. Khi thực hiện cơ chế “tự khai, tự nộp” phải có cơ chế xử phạt có tính răn đe nhằm ngăn ngừa các hành vi gian dối trong kê khai.
– Áp dụng biện pháp kiểm tra từ nguồn phát sinh thu nhập, yêu cầu các đơn vị chi trả thu nhập phải khai báo tình hình chi trả thu nhập.
– Mở tài khoản tại ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát thu nhập, đồng thời cũng tạo điều kiện để ngân hàng huy động được một lượng vốn nhàn rỗi lớn trong dân chúng tạo điều kiện phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, để quản lý chặt chẽ thu nhập nên khuyến khích cá nhân mở tài khoản tại ngân hàng, yêu cầu các đơn vị chi trả thu nhập mở tài khoản cho cá nhân được chi trả thu nhập và thanh toán thông qua tài khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng.
– Thời gian đầu khi số lượng cá nhân mở tài khoản tại ngân hàng chưa nhiều nên việc kiểm soát thu nhập cũng còn hạn chế. Để quản lý chặt chẽ thu nhập trong giai đoạn hiện nay cơ quan thuế cần nhanh chóng ứng dụng tin học trong ngành thuế, nối mạng trong công tác quản lý Thuế thu nhập cá nhân. Theo cách này, sau khi đã cấp mã số thuế cho cá nhân, cơ quan thuế yêu cầu các đơn vị chi trả thu nhập hàng tháng hoặc quý phải lập bảng kê chi trả thu nhập đã thanh toán cho cá nhân (có thể kèm theo phiếu chi nếu là thu nhập không thường xuyên) gửi đến cơ quan thuế. Cơ quan thuế sẽ tập hợp, kiểm tra và nhập vào chương trình máy. Hàng quý và cuối năm, cơ quan thuế tổng hợp tất cả thu nhập của từng cá nhân theo từng mã số rồi tiến hành xác định số thuế phải nộp. Cơ quan thuế sẽ phối hợp với cơ quan công an hoặc đơn vị chi trả thu nhập để thông báo số thuế phải nộp cho đối tượng nộp thuế. Phương pháp này có thể kiểm soát chặt chẽ, chính xác số thu nhập của cá nhân phát sinh ở nhiều nơi, hạn chế thất thu ngân sách.
Giải pháp hoàn thiện Thuế Thu nhập cá nhân
Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn
Luận Văn A-Z nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!
UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT