Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững công nghiệp

phát triển bền vững công nghiệp

Mục lục

Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững công nghiệp

Tiêu chí để đánh giá phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống. Đối với lĩnh vực công nghiệp, để phát triển bền vững công nghiệp, đương nhiên điều kiện cần là chúng ta phải có một nền công nghiệp phát triển, không những thế mà phải là một nền công nghiệp phát triển theo hướng bền  vững hay nói cách khác là có thể phát triển lâu dài; để đánh giá phát triển bền vững công nghiệp, chúng ta sử dụng tổng hợp các tiêu chí sau đây:

1. Tăng trưởng bền vững

Tăng trưởng bền vững bao hàm cùng lúc các đòi hỏi về tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng. Trong đó, tốc độ tăng trưởng đã được đề cập nhiều trong các nghiên cứu và chiến lược thời gian qua. Thực tế là Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao trong nhiều năm, tuy nhiên chất lượng tăng trưởng vẫn chậm được cải thiện. Trong các công trình nghiên cứu, vấn đề chất lượng tăng trưởng còn ít được đề cập hoặc chưa tương xứng với nội dung tăng trưởng. Rõ ràng bền vững chỉ đạt được khi tăng trưởng có hiệu quả hay tạo ra các giá trị đóng góp (thu được) ngày càng lớn. Chất lượng tăng trưởng thể hiện ở 3 yếu tố chính: giá trị gia tăng (VA), năng lực  cạnh tranh và cơ cấu công nghiệp. Như vậy, tăng trưởng bền vững được thể hiện qua 4 yếu tố sau:

1.1. Tốc độ tăng trưởng

Tốc độ tăng trưởng là chỉ tiêu quan trọng hàng đầu đánh giá mặt lượng của sự phát triển, nó phản ánh sự gia tăng về quy mô của tổng sản phẩm trong nước (GDP) hoặc tổng sản phẩm trong tỉnh (đối với một địa phương) năm sau so với năm trước và giữa các thời kỳ với nhau. Nếu tính chung cho cả nền kinh tế, chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nếu tính cho từng ngành: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ chúng ta có tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp,  tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ.

[message type=”e.g. information, success]Xem thêm : Khái niệm phát triển bền vững công nghiệp[/message]

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) hoặc tổng sản phẩm trong tỉnh (đối với một địa phương) là giá trị mới của hàng hoá và dịch vụ được tạo ra của toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia (hoặc của một địa phương) trong một khoảng thời gian nhất định. Tổng sản phẩm trong nước (trong tỉnh) được tính theo giá thực tế và giá so sánh. Tổng sản phẩm trong nước (trong tỉnh) theo giá thực tế thường được dùng để nghiên cứu cơ cấu kinh tế, mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong sản xuất, mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với phần huy động vào ngân sách. Tổng sản phẩm trong nước (trong tỉnh) theo giá so sánh đã loại trừ biến động của yếu tố giá cả qua các năm, dùng để tính tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, của các ngành kinh tế, nghiên cứu sự thay đổi về khối lượng hàng hoá và dịch vụ sản xuất.

Đối với ngành công nghiệp, tốc độ tăng trưởng công nghiệp được xác định bằng tỷ lệ phần trăm tăng thêm (hoặc giảm đi) giữa giá trị tổng sản phẩm công nghiệp tạo ra trong năm (theo giá so sánh) so với giá trị tổng sản phẩm công nghiệp của năm trước đó (theo giá so sánh).

Tốc độ              Giá trị tổng sản phẩm công nghiệp năm n

tăng trưởng  =  —————————————————- x 100                 (1.1)

công nghiệp       Giá trị tổng sản phẩm công nghiệp năm n-1

 

Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Muốn có nền công nghiệp phát triển nhanh, trước hết công nghiệp  cần phải có tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong dài hạn.

1.2.  Giá trị gia tăng (VA)

Giá trị gia tăng (còn được gọi là giá trị tăng thêm) là giá trị hàng hoá và dịch vụ mới sáng tạo ra của các ngành kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Giá trị gia tăng là một bộ phận của giá trị sản xuất, bằng chênh lệch giữa giá trị sản xuất (GO) và chi phí trung gian (IC), bao gồm: thu nhập của người lao động từ sản xuất, thuế sản xuất, khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất và thặng dư sản xuất. Mối quan hệ giữa VA, GO và IC được biểu diễn như sau:

VA = GO – IC           (1.2)

Giá trị gia tăng là chỉ tiêu lõi phản ánh tăng trưởng kinh tế, đồng thời là chỉ tiêu định lượng phản ánh chất lượng tăng trưởng kinh tế. Chỉ số VA thường xét cho đơn vị sản xuất kinh doanh hoặc trên giác độ ngành hoặc nhóm ngành kinh tế, còn chỉ tiêu GDP được xác định trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Theo cách tính trên,  VA tỷ lệ thuận với GO và tỷ lệ nghịch với IC, do đó người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ VA/GO để phản ánh xu thế tăng trưởng có chất lượng của một ngành.

Tỷ lệ VA/GO càng cao thì chất lượng tăng trưởng ngành công nghiệp càng cao và ngược lại. Thông thường, tỷ lệ VA/GO thấp trong ngành công nghiệp là hệ quả của việc sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và lao động thủ công, hàm lượng chất xám và công nghệ trong giá thành sản phẩm chiếm tỷ trọng nhỏ. Đây cũng là một biểu hiện đặc trưng cho thời kỳ đầu phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hoá dựa vào gia công và khai thác tài nguyên thiên nhiên, nếu không nhận diện và điều chỉnh kịp thời sẽ tạo ra các mầm mống thiếu bền vững trong tương lai.

1.3. Năng lực cạnh tranh

Phản ánh những giá trị lợi thế vô hình và hữu hình, những cơ hội thu hút đầu tư và tạo ra lợi nhuận của các ngành kinh tế. Năng lực cạnh tranh là yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng. Năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, năng lực cạnh doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Việc lượng hoá chỉ tiêu này là tương đối khó khăn. Về mặt định tính, năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp biểu hiện ở hình ảnh, vị thế, sức hấp dẫn của quốc gia, của tỉnh, của doanh nghiệp, còn năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ biểu hiện ở khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ hay nói cách khác là chỗ đứng của các sản phẩm, dịch vụ trên thị trường trong và ngoài nước.

1.4. Cơ cấu công nghiệp

Cơ cấu công nghiệp là số lượng các bộ phận hợp thành công nghiệp và mối  quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy. Một nền công nghiệp chỉ được coi là phát triển khi nó có một cơ cấu cân đối và hợp lý.

Về mặt lượng, cơ cấu công nghiệp được xác định bằng tỷ trọng giá trị sản lượng (hoặc GDP) của từng bộ phận chiếm trong tổng giá trị sản lượng (hoặc GDP) của toàn bộ công nghiệp. Tỷ trọng này phụ thuộc vào vị trí của mỗi bộ phận trong hệ thống. Những ngành công nghiệp then chốt, mũi nhọn thường chiếm tỷ trọng lớn, vì chúng luôn được ưu tiên về đầu tư phát triển. Những ngành công nghiệp “mới” lúc đầu thường chiếm tỷ trọng nhỏ, tỷ trọng này sẽ tăng dần lên cùng với sự trưởng thành của chúng. Phân theo ngành cấp 1, công nghiệp Việt Nam có 3 nhóm ngành: công nghiệp khai thác mỏ; công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất, phân phối ga, điện, nước.

Cơ cấu công nghiệp là một trong ba nội dung tạo nên chất lượng tăng trưởng. Cơ cấu bền vững là cơ cấu phản ánh được xu thế phát triển chung (sản phẩm, công nghệ), đảm bảo các cân đối nội tại thượng-hạ nguồn, công nghiệp phụ trợ…và xuất nhập khẩu. Đó là cơ cấu đa dạng nhưng thống nhất và có khả năng hỗ trợ tốt cho nhau cho phép tạo ra các giá trị gia tăng lớn nhất. Trong đó, hàm lượng công nghệ và chế biến sâu trở thành động lực chính của tăng trưởng, quyết định nội dung về chất của cơ cấu. Bên cạnh đó, công nghiệp bền vững còn phải được hỗ trợ bởi hệ thống đổi mới và nghiên cứu triển khai có năng lực, cơ sở thúc đẩy năng suất và chất lượng.

Việc xác định thế nào là một cơ cấu ngành công nghiệp cân đối và hợp lý cho mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ và mỗi địa phương là khác nhau và không có một khuôn mẫu thống nhất. Một cơ cấu ngành công nghiệp được coi là cân đối và hợp lý khi nó khai thác, tận dụng được các nguồn lực, thế mạnh và lợi thế so sánh của quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương để tạo điều kiện tốt cho phát triển công nghiệp, đồng thời cơ cấu ngành công nghiệp đó phải chuyển dịch theo hướng hiện đại hóa.

Ngoài việc xác định cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp, chúng ta còn phải quan tâm đến đóng góp của công nghiệp vào cơ cấu kinh tế nói chung, nói cách khác là  quan tâm đến tỷ trọng của công nghiệp trong GDP. Một địa phương, quốc gia chỉ được coi là có nền công nghiệp phát triển khi tỷ trọng công nghiệp trong GDP ngày càng tăng và đóng vai trò quyết định.

2.Doanh nghiệp bền vững

Doanh nghiệp là cấu thành quan trọng nhất của công nghiệp, mỗi doanh nghiệp phải thực sự bền vững mới tạo ra nền công nghiệp bền vững. Thuật ngữ doanh nghiệp bền vững được nhắc đến nhiều trong thời gian gần đây, phản ánh năng lực tự điều chỉnh và thích nghi trong môi trường luôn biến động (bền vững  động), hàm chứa không chỉ các nội dung về kinh tế mà còn trách nhiệm xã hội – Corporate Social Responsibility (CSR) của doanh nghiệp. Mặc dù vậy, cho đến nay chưa thấy có tài liệu nào đưa ra một khái niệm chuẩn tắc về doanh nghiệp bền vững. Theo quan điểm của  tác giả luận án, doanh nghiệp bền vững là doanh nghiệp có thể phát triển ổn định, lâu dài và có đóng góp tích cực cho sự phát triển của cộng động, xã hội; sự đóng góp này không chỉ là đem lại sự thịnh vượng về kinh tế mà còn góp phần bảo vệ môi trường và giải quyết tốt các vấn đề về mặt xã hội. Ngoài các chỉ tiêu đánh giá mặt lượng hiệu quả sản xuất, kinh doanh của một doanh nghiệp như năng suất lao động, lợi nhuận, tăng trưởng… về mặt chất doanh nghiệp bền vững được đánh giá trên các mặt sau:

  1. Quá trình sản xuất sạch, hiệu quả: nguyên tắc quan trọng nhất của PTBV là hài hoà giữa phát triển và BVMT. Trong công nghiệp, phát triển phải đi đôi với giảm thiểu ô nhiễm và phát thải, điểm mấu chốt của vấn đề BVMT trong công nghiệp chính là quá trình sản xuất, bởi sản xuất công nghiệp là nguyên nhân cơ bản tạo ra chất thải và các tác động tới môi trường và xã hội. Sản xuất công nghiệp không tránh khỏi tiêu dùng tài nguyên thiên nhiên như đất đai, nước, năng lượng, nguyên vật liệu và cả sản phẩm do chính công nghiệp tạo ra. Song quá trình sản xuất thế nào để phát thải ít nhất, tiết kiệm nhất để các tài nguyên tái tạo có thể tái tạo được và giảm thiểu mất mát các tài nguyên không tái tạo. Quá trình sản xuất sạch, hiệu quả chính là cách tốt nhất, đảm bảo cả ba lợi ích: kinh tế, xã hội, môi trường không những cho thế hệ hiện tại mà  còn cho cả thế hệ mai sau. Để PTBV, doanh nghiệp cần phải sở hữu một quá trình sản xuất sạch, hiệu quả dựa trên công nghệ sản xuất hiện đại, phù hợp với năng lực, khả năng của doanh nghiệp.
  1. Sản phẩm thân thiện môi trường: việc tiêu dùng sản phẩm công nghiệp đang tạo ra lượng chất thải rất lớn như hàng tiêu dùng, bao gói, hoá chất… nếu không được xử lý sẽ gây ra ô nhiễm rất lớn nhưng nếu xử lý sẽ rất tốn kém. Như vậy, để PTBV doanh nghiệp phải sở hữu quá trình sản xuất sạch, hiệu quả không thôi là chưa đủ mà cần hướng tới việc sản xuất các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm không chất thải, các mô hình công nghiệp sinh thái trong đó các sản phẩm và chất thải được quay vòng, tái sử dụng, trao đổi trong một “vòng đời khép kín (life cycle)”. Mặc dù đây là đòi hỏi khá cao, chỉ có thể đáp ứng khi công nghiệp phát triển đến trình độ nhất định và sẽ là khó khăn cho phần lớn các địa phương của Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào các ngành công nghiệp như: khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng, năng lượng, gia công, sơ chế, sản xuất các sản phẩm thô… Tuy nhiên, tiếp cận này hiện đang trở lên phổ biến trên thế giới và bước đầu được thực hiện ở Việt
  2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đầy đủ: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp – Corporate Social Responsibility (CSR) chính là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sản xuất, môi trường và xã hội. Bền vững trước hết phải bắt nguồn từ trong ý thức, quyết định hành động và ứng xử của mỗi doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội phản ánh cách ứng xử của doanh nghiệp đối với môi trường xung quanh và các vấn đề có liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp chỉ được coi là bền vững khi nó đảm bảo được trách nhiệm đối với xã hội của mình.

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được hiểu là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những việc nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên trong gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội theo cách có lợi cho doanh nghiệp, cũng như sự phát triển chung của xã hội. Các doanh nghiệp muốn PTBV luôn phải tuân thủ những chuẩn mực về BVMT, bình đẳng giới, an toàn lao động, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng,… và thực hiện trách nhiệm xã hội của mình thông qua việc áp dụng các bộ Quy tắc ứng xử (CoC) và các tiêu chuẩn như SA 8000 (tiêu chuẩn lao động trong các nhà máy sản xuất), WRAP (trách nhiệm toàn cầu trong ngành may mặc), ISO 14000 (hệ thống quản lý môi trường trong doanh nghiệp),… Điều quan trọng là ý thức về trách nhiệm xã hội phải là kim chỉ nam trong hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực, bất kể họ tuân thủ bộ quy tắc ứng xử nào, hay thậm chí  thực hiện trách nhiệm xã hội theo các quy tắc đạo đức mà họ cho là phù hợp với yêu cầu của xã hội và được xã hội chấp nhận.

Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, rào cản và thách thức cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm: nhận thức về khái niệm trách nhiệm xã hội còn hạn chế; năng suất bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng thời nhiều bộ quy tắc ứng xử; thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ); sự nhầm lẫn do khác biệt giữa qui định của bộ quy tắc ứng xử và Bộ Luật Lao động; và những quy định trong nước ảnh hưởng tới việc thực hiện các bộ quy tắc ứng xử. Như vậy, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một vấn đề không dễ dàng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp cần phải quan tâm và thực hiện trách nhiệm xã hội, vì người tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu ngày càng quan tâm hơn tới ảnh hưởng của việc toàn cầu hoá đối với quyền của người lao động, môi trường và phúc lợi cộng đồng. Những doanh nghiệp không thực hiện trách nhiệm xã hội có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường.

Ngày nay, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao hàm nhiều khía cạnh hơn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, một doanh nghiệp hiện đại chỉ được xem là có trách nhiệm xã hội khi: đảm bảo được hoạt động của mình không gây ra những tác hại đối với môi trường sinh thái, tức là phải thể hiện sự thân thiện với môi trường trong quá trình sản xuất của mình, đây là một tiêu chí rất quan trọng đối với người tiêu dùng; Phải biết quan tâm đến người lao động, người làm công cho mình không chỉ về mặt  vật chất mà còn về mặt tinh thần, buộc người lao động làm việc đến kiệt sức hoặc không có giải pháp giúp họ tái tạo sức lao động của mình là điều hoàn toàn xa lạ với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; Phải tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ, không được phân biệt đối xử về mặt giới tính trong tuyển dụng lao động và trả lương mà phải dựa trên sự công bằng về năng lực của mỗi người; Không được phân biệt đối xử, từ chối hoặc trả lương thấp giữa người bình thường và người bị khiếm khuyết về mặt cơ thể hoặc quá khứ của họ; Phải cung cấp những sản phẩm có chất lượng tốt, không gây tổn hại đến sức khoẻ người tiêu dùng, đây cũng là một tiêu chí rất quan trọng thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng; Dành một phần lợi nhuận của mình đóng góp cho các hoạt động trợ giúp cộng đồng. Vì cộng đồng và san sẻ gánh nặng với cộng đồng đang là một mục tiêu mà các doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội đang hướng tới bên cạnh mục tiêu phát triển lợi nhuận của mình. Quả thực, sẽ có nhiều trẻ em được cứu sống hơn, nhiều trẻ em được đến trường hơn…, nếu các doanh nghiệp sẵn sàng chia sẻ lợi ích với cộng đồng.

Ở Việt Nam, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang trở thành một nội dung được quan tâm, nó sẽ đem lại cho các doanh nghiệp những lợi ích và cơ hội như: khả năng gia tăng các hợp đồng mới và hợp đồng gia hạn từ các công ty đặt hàng nước ngoài; năng suất lao động của các công ty tăng lên do công nhân có sức khoẻ tốt hơn và hài lòng với công việc hơn. Khi lợi thế về giá nhân công rẻ hay nguồn tài nguyên phong phú không còn là của riêng Việt Nam, thì việc thực thi trách nhiệm xã hội đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp này vì nó chính là một công cụ đắc lực giúp cho doanh nghiệp nội địa chiếm được ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là cần phải hiểu đúng và thống nhất thế nào là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trên thực tế rất dễ hiểu lầm khái niệm trách nhiệm xã hội theo nghĩa “truyền thống”, tức là doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội như là một hoạt động tham gia giải quyết các vấn đề xã hội mang tính nhân đạo, từ thiện. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam, vì vậy việc thực hiện cho đến nay vẫn còn hạn chế. Chỉ một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá tới các quốc gia có quy định chặt chẽ trách nhiệm này thì mới áp dụng. Một số doanh nghiệp cho là chỉ cần tham gia một vài chương trình từ thiện tức là đã làm tốt trách nhiệm trong khi thực tế lại chẳng hề quan tâm đến đời  sống của công nhân viên trong doanh nghiệp – những người có vai trò quyết định tới chất lượng sản phẩm. Công nhân không được đóng bảo hiểm, phải làm việc quá giờ quy định, đời sống không đảm bảo, môi trường làm việc không an toàn về sức khoẻ. Do chưa thấy được vai trò quan trọng cũng như lợi ích từ việc thực hiện trách nhiệm  xã hội đem lại, nên nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không làm tròn trách nhiệm của mình với xã hội, như xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người tiêu dùng, gây ô nhiễm môi trường,… chẳng hạn như trong vấn đề lạm phát: khi lạm phát tăng cao làm chi phí đầu vào tăng mạnh, các doanh nghiệp thường có xu hướng tăng giá các mặt hàng để bảo toàn lợi nhuận. Việc này lại khiến cho lạm phát trở nên trầm trọng hơn và càng khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Thực tế, nhiều doanh nghiệp đã lựa chọn giải pháp chia sẻ gánh nặng với người tiêu dùng. Tuy nhiên, vẫn có nhiều doanh nghiệp cố tình tăng giá, đầu cơ nhằm trục lợi trong bối cảnh nền kinh tế bị lạm phát. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh  đã lợi dụng các sự kiện bão lụt, ngập úng,… để tăng giá, hoặc không chịu giảm giá. Có thể thấy rõ rằng, hầu hết người dân bình thường với thu nhập trung bình hoặc thấp đều bị ảnh hưởng lớn từ mặt bằng giá cả quá cao.

Trong vấn đề gây ô nhiễm môi trường: Để doanh nghiệp có thể cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp phải đảm bảo hoạt động của mình không gây ra những tác hại đối với môi trường sinh thái, tức là phải thể hiện sự thân thiện với môi trường trong quá trình sản xuất của mình. Đây là một tiêu chí rất quan trọng đối với người tiêu dùng, việc các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường đang trở nên nhức nhối và gây bất bình trong xã hội, như vụ phát hiện Công ty Vedan Việt Nam xả nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải, cùng các hành vi gây ô nhiễm môi trường có hệ thống của nhiều công ty khác. Như vậy, đối với trường hợp Vedan, việc kinh doanh  của họ là không có đạo đức và hành xử vô trách nhiệm với môi trường, người lao động và ngay cả với xã hội đang nuôi dưỡng công ty.

3. Tổ chức không gian lãnh thổ và phân bố công nghiệp

Phân bố công nghiệp, quy hoạch các KCN, CCN có vai trò quan trọng đối với hiệu quả của sản xuất công nghiệp cũng như giải quyết các vấn đề khác có liên quan  về mặt xã hội, môi trường. Việc bố trí hợp lý các cơ sở sản xuất công nghiệp, các  KCN, CCN theo vùng lãnh thổ, địa phương ngoài việc khai thác tốt các tiềm năng, nguồn lực và thế mạnh sẵn có về nguồn nguyên liệu, cơ sở hạ tầng, lao động, thị trường, thu hút vốn đầu tư… còn giải quyết được các vấn đề về cấp điện, cấp nước, xử lý chất thải, chống ô nhiễm môi trường, phân bố dân cư và hình thành các khu đô thị… Phân bố công nghiệp và quy hoạch phát triển công nghiệp không chỉ đáp ứng các yêu cầu trước mắt mà còn phải tính đến các yếu tố trong tương lai, nói cách khác quy  hoạch phải có tầm nhìn rộng và dài.

Vấn đề tổ chức không gian lãnh thổ và phân bố công nghiệp là một tiêu chí  quan trọng khi xem xét đánh giá phát triển bền vững công nghiệp. Để phát triển bền vững cần thiết phải tổ chức không gian lãnh thổ và phân bố công nghiệp hợp lý. Đây là một tiêu chí gần như không thể định lượng và có nội dung bao trùm, đan xen trên cả ba lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường. Một cách tổng quát, tính hợp lý trong tổ chức không gian lãnh thổ và phân bố công nghiệp thể hiện ở chỗ khai thác và phát huy được tối đa tiềm năng, lợi thế của đất nước, của vùng và của địa phương phục vụ cho việc phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo cho nền kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng phát triển ổn định, lâu dài nhưng không gây áp lực và làm nảy sinh những bất ổn về mặt xã hội, cũng như không làm phá vỡ cảnh quan, môi trường sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Nói tóm lại, việc tổ chức không gian lãnh thổ và phân bố công nghiệp được coi là hợp lý khi nó đảm bảo hài hoà được cả ba mục tiêu: kinh tế, xã hội và môi trường trong suốt quá trình vận động, phát triển của đất nước, của vùng và của địa phương.

Những luận cứ trên đây phác thảo các nội dung tiêu chí Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững công nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất vẫn ở phía trước do còn phải đo lường và định lượng được các tiêu chí đó làm cơ sở hướng dẫn các hành động. Trên thực tế, đánh giá ảnh hưởng của các tiêu chí không phải là việc dễ dàng, định lượng các mức độ ảnh hưởng càng khó hơn, trong đa phần các trường hợp cũng chỉ mang tính tương đối và  rất nhạy cảm. Đối với một ngành, việc quy hoạch tính năng công nghiệp (lựa chọn công nghệ/sản phẩm) không chỉ phụ thuộc vào thị trường mà còn phụ thuộc vào lựa chọn bối cảnh không gian và thời gian với các mức độ bền vững khác nhau. Làm thế nào định lượng được mức độ phù hợp của các phân bố không gian và thời gian, làm  thế nào xác định được các sắc thái xã hội hoặc chất lượng cuộc sống vào trong các chỉ tiêu, làm thế nào đo lường các mức độ cải thiện hay đáp ứng môi trường của công nghiệp? Chưa nói, trong nhiều trường hợp vấn đề lượng hoá còn đòi hỏi những chứng minh khoa học tốn nhiều thời gian và tiền của. Stephen Viederman viết “Bền vững không phải là vấn đề kỹ thuật cần giải quyết mà là tầm nhìn vào tương lai, đảm bảo cho chúng ta một lộ trình và giúp tập trung chú ý vào một tập hợp các giá trị và những nguyên tắc mang tính luân lý và đạo đức để hướng dẫn hành động của chúng ta”. Song khó khăn ở chỗ làm thế nào để đo lường được các mức độ đó [48].

Eric Rodenburg cho rằng khó có thể quan trắc sự bền vững do thiếu thông tin. John O’Connor lại cho rằng thách thức lớn nhất không phải là thiếu mà là quá tải  thông tin, chính vì vậy không biết chỉ tiêu nào trong số các chỉ tiêu được đặt ra có ý nghĩa và lợi ích nhiều nhất. Fulai Sheng cho rằng ở các dạng thức hiện nay, những chỉ tiêu kinh tế quốc gia đều không có khả năng trắc lượng được tính bền vững về mặt kinh tế, chứ chưa nói gì đến việc phản ánh chính xác các khía cạnh sinh thái và xã hội của sự phát triển bền vững. Walter Corson đã điểm lại những nỗ lực nhằm liên kết những chỉ tiêu về tính bền vững với các mục tiêu phát triển cụ thể, trong đó chú trọng tới các chỉ tiêu mang tính quốc gia, đã đi đến kết luận rằng việc liên kết các chỉ tiêu như vậy mang lại các lợi ích thiết thực. Tuy nhiên, tác giả cũng phải thừa nhận rằng không phải chỉ tiêu nào cũng có thể định lượng được, mấu chốt cuối cùng vẫn là làm được gì trong rất nhiều những vấn đề đặt ra đó [48].

Thực tế ở Việt Nam, có rất nhiều phương án lựa chọn trong phát triển công nghiệp, nguyên tắc đặt ra là phải ưu tiên các lựa chọn theo tiếp cận bền vững. Mặc dù điều này không dễ dàng thống nhất do cảm nhận khác nhau xuất phát từ việc “không thể định lượng” được, thậm chí nhiều trường hợp còn phải trả giá do mất thời gian để kiểm chứng. Chính vì vậy, tiếp cận Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững mang tính tự nhiên, bản chất và không phải lúc nào cũng cần phải giải thích. Giống như cảm nhận “sống chung với lũ” không phải xuất phát từ các chứng minh khoa học mà là cảm nhận tự nhiên của sự tồn tại, vốn có.

Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững công nghiệp

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bạn cần hỗ trợ?