Hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế cho hoạt động ngân hàng

nguồn nhân lực

Mục lục

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế cho hoạt động ngân hàng

1. Xây dựng và đổi mới căn bản khuôn khổ hệ thống pháp luật, thể chế điều chỉnh hoạt động của NHNN và các Tổ chức Tín dụng.

Để  triển khai Đề  án phát triển ngành NH Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 05 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ, Luật NHNN Việt Nam và Luật Các TCTD đã được xây dựng và trình Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 7 (từ 20/5-19/6/2010), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Có nhiều điểm mới trong 2 Luật: hai Luật mới đã kế thừa và phát huy những ưu điểm, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của những quy định hiện hành về tổ chức, hoạt động của NHNN cũng như việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát hoạt động của các TCTD.

Luật NHNN Việt Nam gồm 7 chương và 66 điều. Về vị thế, NHNN vần là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, là NHTW của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thống đốc NHNN vẫn là thành viên Chính phủ. Nhưng Luật NHNN đã quy định cụ thể hơn về vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó quy định cụ thể thẩm quyền và tính tự chủ của NHNN trong việc thực thi chính sách tiền tệ và quyết định sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ. Theo đó, Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Ở đây, Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; và Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm; Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên thẩm quyền cụ thể của mỗi cấp này lại cần được tiếp tục làm rõ trong các văn bản dưới luật. Đặc biệt về lãi suất ngân hàng, Luật quy định lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất cơ bản để chống cho vay nặng lãi, vừa đảm bảo để NHNN điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, vừa có cơ sở để áp dụng quy định của các luật liên quan. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để NHNN thay đổi nội hàm lãi suất cơ bản theo hướng lãi suất cơ bản không phải là cơ sở để cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh mà là cơ sở cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, Luật NHNN cũng quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của NHNN trước Quốc hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung mới, quan trọng trong hoạt động của NHTW nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công chúng, thị trường.

Đồng thời, Luật NHNN cũng khẳng định sự khác biệt về bản chất giữa thanh tra, giám sát ngân hàng với thanh tra hành chính thông thường; mở rộng phạm vi giám sát đối với toàn bộ hoạt động của TCTD, các hoạt động của công ty con, công ty liên kết của TCTD; thẩm quyền của NHNN trong việc can thiệp, xử lý sớm các TCTD nhằm ngăn chặn kịp thời khả năng đổ vỡ… Về thẩm quyền của NHNN can thiệp vào TCTD, Luật cho phép NHNN áp dụng một số biện pháp đặc biệt để xử lý các TCTD vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật về tiền tệ và ngân hàng hoặc gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng như mua cổ phần của TCTD, đình chỉ có thời hạn, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của TCTD; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể TCTD; đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc biệt (trong đó, mua cổ phần là một cơ chế can thiệp mới, mạnh, nhanh hơn so với cơ chế cho vay đặc biệt). Trong trường hợp cho vay đặc biệt, hoạt động của NHNN cũng rộng hơn: NHNN được cho vay không những đối với các TCTD đã “lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả” như quy định trong Luật hiện hành mà cả đối với TCTD hoạt động bình thường nhưng “có nguy cơ mất khả năng chi trả do các sự cố nghiêm trọng khác” để bảo đảm có thể can thiệp sớm hơn, hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng …

Luật Các TCTD bao gồm 10 chương 163 điều. So với Luật các TCTD năm 1997, phạm vi điều chỉnh của Luật mới đã được quy định cụ thể hơn và bỏ phần quy định về các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng. Mặt khác, Luật Các TCTD cũng đã mở rộng phạm vi điều chỉnh về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các TCTD, trong đó, tổ chức quản lý là nội dung có thay đổi nhiều nhất. Liên quan đến việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động TCTD, Luật quy định cụ thể các điều kiện cấp phép đối với từng loại hình TCTD theo hướng nâng cao các yêu cầu, tiêu chí về đảm bảo an toàn của từng TCTD và cả hệ thống, điều kiện cấp phép được rà soát vừa chặt chẽ vừa tuân thủ các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Một thay đổi căn bản là nội dung quy định về những thay đổi cần chấp thuận của NHNN. Luật đã bỏ bớt quy định về sự chuẩn y của NHNN với những thay đổi về nhân sự chủ chốt, đăng ký điều lệ nhằm giảm bớt thủ tục hành chính và tăng quyền tự chủ cho TCTD.

[message type=”e.g. information, success”]Xem thêm : Quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam[/message]

Luật NHNN và Luật Các TCTD có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, như vậy NHNN có hơn 6 tháng để chuẩn bị cho việc ban hành các nghị định, văn bản hướng dẫn. Đây là một công việc nặng nhọc. Luật các TCTD trước được ban hành ngày 24/06/2004, và Luật NHNN 26/06/2003. Từ đó đến nay 15 nghị định của Chính phủ liên quan đến việc thực hiện hai luật trên được ban hành, còn thông tư, quyết định thì hàng  trăm.  Riêng  với  Luật  NHNN,  phải  hơn  năm  năm  sau,  Nghị  định  số 96/2008/NĐ-CP  quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của NHNN  mới  được  ban  hành.  Gần  đây  nhất,  ngày  12/02/2010  Nghị  định  số 10/2010/NĐ-CP về hoạt động thông tin tín dụng mới được ban hành. Luật mới đã được thông qua, nhưng hướng dẫn thực hiện luật hiện hành thì vẫn chưa hoàn tất. Tương tự, để Luật các TCTD có thể thực hiện, sơ sơ cũng cần 50 văn bản hướng dẫn của NHNN và 5 đến 10 nghị định của Chính phủ. Chẳng hạn “Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục, tổng mức sở hữu tối đa, tỷ lệ sở hữu tối đa của nhà đầu tư nước ngoài tại TCTD” (điều 16, khoản 2); “Chính phủ quy định thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của ngân hàng chính sách” (điều 17, khoản 2); “Chính phủ quy định mức vốn pháp định đối với từng loại hình TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” (điều 19, khoản 1); “Chính phủ quy định điều kiện cụ thể để công ty tài chính thực hiện các hoạt động kinh doanh” (điều 108, khoản 2); “Chính phủ quy định việc góp vốn mua cổ phần”(điều 149, khoản 4); “Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể hoạt động của các chương trình, dự án tài chính vi mô” (điều 161, khoản 6)… Còn liệt kê các điều khoản chờ NHNN quy định thì phải vài trang giấy. Tính ra mỗi tháng bình quân phải có ít nhất 10 nghị định, thông tư hướng dẫn hai luật trên ra đời cho kịp thời hạn luật có hiệu lực. Tức là ba ngày phải có một văn bản hướng dẫn. Vậy bộ máy của NHNN phải “chạy” với tốc độ nào mới xây dựng đủ văn bản hướng dẫn để triển khai luật vào đầu năm 2011.

2. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát định hướng theo rủi ro, thanh tra pháp nhân để đánh giá toàn diện hoạt động của NHTM theo các quy định của Uỷ ban Basel về giám sát NH.

Mục tiêu cần đạt được là trên cơ sở bộ máy Thanh tra NHNN hiện có, xây dựng hệ thống giám sát NH hiện đại và hữu hiệu (về thể chế, mô hình tổ chức, con người và phương pháp) nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển hệ thống NH Việt Nam và thực hiện đúng các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát NH. Trên cơ sở Nghị định 96/2008/NĐ-CP qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN, ngày 27/05/2009 Thủ tướng Chính phủ  đã ký  quyết định  Số 83/2009/QD-TTg về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan thanh tra, giám sát NH. Theo đó, 4 vụ cục, đơn vị chức năng của NHNN đã được tích hợp thành một Cơ quan thanh tra, giám sát NH mới trực thuộc bộ máy của NHNN, thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý, giám sát NH. Trên thực tế, mùa hè năm 2009 NHNN đã thành lập Cơ quan này tương đương cấp Tổng cục thuộc NHNN trên cơ sở bộ máy Thanh tra NHNN hiện nay. Mục tiêu và trách nhiệm chính của Cơ quan này là góp phần bảo đảm sự an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD và chấp hành nghiêm minh pháp luật về tiền tệ, hoạt động NH, bảo vệ lợi ích của công chúng.

Sau khi đưa được các nội dung cơ bản về giám sát NH và định hướng đổi mới hệ thống giám sát NH, đặc biệt là đối với thanh tra, giám sát chuyên ngành NH vào các Luật NHNN và Luật TCTD mới, cũng như đổi mới mô hình tổ chức của Thanh tra NHNN hiện nay theo hướng tập trung, thống nhất, chuyên nghiệp và phù hợp với chuẩn mực quốc tế về thanh tra, giám sát NH (Basel), công việc tiếp theo là tiếp tục ưu tiên đổi mới phương pháp hoạt động thanh tra giám sát theo hướng tập trung vào trạng thái rủi ro của TCTD/NHTM và trên khía cạnh quản trị rủi ro tích hợp của họ; đồng thời cần xây dựng Luật Giám sát an toàn hoạt động NH, bảo đảm để Cơ quan Giám sát an toàn hoạt động NH có đủ quyền lực cần thiết trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát an toàn hệ thống và việc chấp hành đúng các quy định pháp luật trong hoạt động của các TCTD.

Tiếp tục hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ hoạt động giám sát NH; hiện đại hoá và sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong công tác thanh tra, giám sát NH. Đổi mới hoạt động cấp giấy phép thành lập và hoạt động NH, đơn giản hoá thủ tục cấp phép. Tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD thành lập và phát triển, đặc biệt là đối với các TCTD phi NH theo hướng bình đẳng trong tiếp cận thị trường và kinh doanh dịch vụ tiền tệ, NH trên cơ sở nâng cao kỷ luật thị trường, các yêu cầu về tiêu chuẩn thành lập các TCTD, quy định an toàn trong hoạt động NH để bảo đảm những TCTD thành lập mới phải có năng lực cạnh tranh, quy mô hoạt động, trình độ công nghệ, chất lượng và mức độ an toàn cao.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiệp vụ giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, trong đó giám sát từ xa được coi là nghiệp vụ quan trọng, có chức năng cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động NH; sử dụng kết quả và hoạt động kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập làm công cụ hỗ trợ cho quá trình giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.

Hoàn thiện các quy định an toàn, các biện pháp thận trọng trong hoạt động NH; các quy định, chính sách quản lý các loại hình TCTD và hoạt động NH; đồng thời đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình thanh tra, giám sát phù hợp sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ NH và trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát NH có hiệu quả của Ủy ban giám sát NH Basel và các chuẩn mực quốc tế về giám sát NH (Hiệp ước vốn Basel năm 1988 – Basel I), từng bước tiến tới thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản theo Hiệp ước vốn mới (Basel II) sau năm 2010.

Tập trung nâng cao năng lực và đổi mới triệt để phương pháp giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa.

Mở rộng danh mục các đối tượng chịu sự thanh tra, giám sát của NHNN.

Hoàn thiện quy chế kiểm toán độc lập đối với các TCTD cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. Hoàn thiện quy chế về tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ và hệ thống kiểm soát nội bộ trong các TCTD.

Xây dựng và triển khai khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở tổng hợp và rủi ro. Xây dựng hệ thống giám sát rủi ro trong hoạt động NH có khả năng cảnh báo sớm đối với các TCTD có vấn đề và các rủi ro trong hoạt động NH. Ban hành quy định mới đánh giá, xếp hạng các TCTD theo tiêu chuẩn CAMEL(S).

Chỉnh sửa phù hợp các quy định, chính sách về bảo hiểm tiền gửi để buộc các tổ chức tài chính – tín dụng có huy động tiền gửi theo quy định của Luật các TCTD đều phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Nâng cao vai trò, năng lực tài chính và hoạt động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam trong việc giám sát, hỗ trợ, xử lý các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi gặp khó khăn và góp phần bảo đảm an toàn hệ thống NH. Tăng cường sự phối hợp giữa Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam và Cơ quan Giám sát an toàn hoạt động NH trong quá trình giám sát các TCTD và xử lý các vấn đề khó khăn của các TCTD. Từng bước chuyển sang thực hiện cơ chế bảo hiểm tiền gửi dựa trên cơ sở mức độ rủi ro của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của Trung tâm Thông tin tín dụng trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các TCTD và hoạt động giám sát của NHNN đối với các TCTD.

Rà soát và hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động NH phù hợp hơn với thông lệ tốt, chuẩn mực quốc tế và đảm bảo việc tuân thủ nghiêm túc các quy định này, đặc biệt là quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro. Ban hành quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản trị nói chung và quản lý rủi ro nói riêng áp dụng đối với các TCTD. Minh bạch hoá hoạt động NH. Tạo điều kiện cho các TCTD cổ phần niêm yết cổ phiếu tại Sở Giao dịch Chứng khoán.

Phát triển đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát đủ về số lượng và có trình độ nghiệp vụ cao, có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, được trang bị đầy đủ kiến thức về pháp luật, quản lý và các công cụ thực thi nhiệm vụ.

Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tham gia các hiệp ước, thoả thuận quốc tế về giám sát NH và an toàn hệ thống tài chính. Tăng cường trao đổi thông tin với các cơ quan giám sát NH nước ngoài.

3. Áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế/chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đối với một số nội dung, nghiệp vụ chủ yếu trong lĩnh vực NH.

Việc áp dụng các Chuẩn mực Kế toán quốc tế ở Việt Nam nói chung, đặc biệt trong lĩnh vực ngành NH đóng vai trò nền tảng trong việc thúc đẩy tiến trình hội nhập vào kinh tế thế giới của Việt Nam, tạo môi trường lành mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời góp phần tạo một nền quản trị NH vững chắc thông qua việc thiết lập được hệ thống thông tin quản lý chất lượng cao, tạo nên tính minh bạch trong quản trị tài chính NH, trật tự kỷ cương của thị trường tài chính.

Cần chấp thuận áp dụng ba nền tảng cơ bản của hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế mà Việt Nam chưa được thừa nhận chung sau đây:

(i) Thực hiện nguyên tắc “Bản chất quyết định hình thức” trong khung chuẩn mực chung/ khi xử lý mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính;

(ii) Những cơ sở sau đây được sử dụng ở các mức độ khác nhau và sử dụng kết hợp để đánh giá các yếu tố của báo cáo tài chính: Chi phí ban đầu/ giá gốc (Historical cost); Chi phí hiện tại (current cost); Giá trị có thể thực hiện (thanh toán)/ giá trị thuần có thể thực hiện (Realizable value); Giá trị hiện tại (Present value)/ giá trị hợp lý (Fair value).

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đang đặt ra 3 mối quan hệ nổi cộm, cần phải được phân tích kỹ và tìm ra những nguyên tắc ứng xử mới: Thứ nhất, mối quan hệ giữa “nền kinh tế thực” và “nền kinh tế ảo – kinh tế tiền tệ”; Thứ hai, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; Thứ ba, mối quan hệ liên thông giữa các thị trường tài chính ở khu vực trong nước và ở khu vực ngoài nước. Đồng thời một số chuyên gia kinh tế cho rằng: một số nội dung của chuẩn mực kế toán quốc tế đã góp phần hoặc là nguyên nhân gián tiếp gây nên cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay như: Sử dụng giá trị hợp lý (Fair value) để xác đinh lại giá trị công cụ tài chính kinh doanh thông qua lãi, lỗ; cho phép bán khống chứng khoán; cho phép chứng khoán hóa các khoản cho vay và bán rộng rãi trên thị trường, tất toán các khoản cho vay đã được chứng khoán hóa này ra khỏi bảng cân đối kế toán của định chế tài chính đã cấp những khoản vay này. Trên thực tế, thị trường chứng khoán Mỹ trong tháng 10/2008, mỗi ngày khoảng 1000 tỷ USD biến mất khỏi thị trường.

Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường được chi phối bởi những quy luật khách quan, tài sản hoặc công nợ kinh doanh không thể không sử dụng cơ sở “giá trị hợp lý thị trường” để xác định lại giá trị của chúng tại thời điểm lập báo cáo tài chính. Điều này, về bản chất cũng là quán triệt nguyên tắc kế toán “cơ sở dồn tích”. Nguyên nhân của khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay nằm ở mặt trái của kinh tế thị trường; ở sự thiếu trách nhiệm và năng lực yếu kém trong quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính, tiền tệ; ở nhược điểm căn bản của mô hình định chế tài chính đầu tư. Tất nhiên, Việt Nam cần theo khuynh hướng thận trọng hơn, vẫn sử dụng “nguyên tắc giá gốc” ở phạm vi tương đối rộng so với chuẩn mực kế toán quốc tế.

(iii) Phân loại tài sản tài chính theo bốn nhóm, mỗi nhóm có nguyên tắc kế toán phù hợp theo IFRS 7, trong đó có sử dụng giá trị hợp lý, phương pháp lãi suất thực trong việc xác định lại giá trị của tài sản tài chính sau thời điểm ghi nhận ban đầu, trong việc tính toán thu lãi/ chi trả lãi vào BCKQKD kỳ kế toán.

Có lộ trình cụ thể, phù hợp để áp dụng có hiệu quả các chuẩn mực kế toán quốc tế vào Việt Nam nói chung, ngành NH nói riêng.

Lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế nên theo 2 bước:

 Bước 1: Hài hòa Chuẩn mực kế toán Việt Nam và Chuẩn mực kế toán Quốc tế ở mức độ nhất định.

Việc áp dụng hoàn toàn, đầy đủ nội dung của các Chuẩn mực kế toán Quốc tế ngay là không nên và cũng không có tính khả thi bởi các lý do sau:

– Thị trường tài chính Việt Nam phát triển chưa cao; việc vận hành của thị trường còn chịu nhiều yếu tố tác động không lành mạnh như yếu tố tâm lý bầy đàn, biến động của giá cả thị trường nhiều khi không khách quan.

– Nhìn chung các Chuẩn mực kế toán Quốc tế về công cụ tài chính, về công cụ phái sinh rất phức tạp, trong khi đó Việt Nam còn thiếu các chuyên gia kế toán có trình độ cao có thể hiểu, vận dụng đúng nội dung của những Chuẩn mực này.

– Kỹ thuật xử lý kế toán theo nội dung của các Chuẩn mực kế toán Quốc tế còn đòi hỏi công nghệ kế toán hiện đại. Nhiều nội dung xử lý nghiệp vụ phải được xử lý tự động bởi hệ thống máy tính (ví dụ về xác định giá trị hợp lý dựa trên phương pháp NPV, và áp dụng phương pháp lãi suất thực).

Giải pháp lựa chọn để hoàn thiện chế độ kế toán Việt Nam trong giai đoạn đầu, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế Quốc tế và quản trị rủi ro của doanh nghiệp; giám sát an toàn thị trường của cơ quan quản lý nhà nước là hài hòa Chuẩn mực kế toán Việt Nam và Chuẩn mực kế toán Quốc tế. Việc hài hòa này được thực hiện theo các nội dung cụ thể sau:

Thứ nhất: Các nội dung trọng yếu, nền tảng và nguyên tắc cơ bản cần được quán triệt. Ví dụ, đối với tài sản tài chính cần phân theo 4 loại tương tự như nội dung IAS 39, theo đó xử lý kế toán theo các nguyên tắc kế toán khác nhau phù hợp tương ứng với mỗi loại; để lập báo cáo tài chính và công bố thông tin đầy đủ, trung thực.

Để thực hiện quan điểm này, cần phải sửa đổi những quy định không phù hợp của Luật Kế toán, của Chế độ kế toán doanh nghiệp theo QĐ số 15/2006/QĐ-BTC, đồng thời xây dựng bổ sung các Chuẩn mực kế toán Việt Nam về công cụ tài chính phù hợp với thực tiễn Việt Nam và Chuẩn mực kế toán Quốc tế.

Thứ hai: Những nội dung không trọng yếu, không phải là nền tảng, đồng thời kỹ thuật xử lý kế toán lại quá phức tạp thì Việt Nam không áp dụng, không quy định. Chẳng hạn, đối với công cụ tài chính, không áp dụng nội dung kế toán phòng ngừa rủi ro.

Thứ ba: Đối với những nội dung không phù hợp với mức độ phát triển thấp của thị trường Việt Nam, cần có quan điểm thận trọng hơn. Ví dụ, đối với những thị trường còn non yếu, nhiều yếu tố phi kinh tế tác động đến giá cả thị trường (yếu tố bầy đàn, thông tin chưa trung thực, minh bạch…), chế độ tài chính – kế toán không nên cho phép đánh giá lại giá trị tài sản khi giá trị thị trường lớn hơn giá trị ghi sổ để ghi nhận vào kết quả kinh doanh.

Thứ tư: NHTM tuân thủ theo Hệ thống Chuẩn mực kế toán trong nước, đồng thời khuyến khích có bản đối chiếu, bổ sung những điều chỉnh cần thiết để đồng thời lập thêm, kiểm toán độc lập và công bố báo cáo tài chính theo Hệ thống Chuẩn mực kế toán Quốc tế.

Thứ năm: Để giảm thiểu chi phí cho các doanh nghiệp về công tác kế toán, kiểm toán, khi nội dung Chuẩn mực kế toán Quốc tế và Chuẩn mực kế toán Việt Nam không có sự khác biệt lớn (trọng yếu) về nội dung kinh tế, không tạo ra sự khác biệt lớn về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chính phủ cho phép doanh nghiệp có đủ năng lực, điều kiện về công nghệ kế toán cũng như trình độ quản trị điều hành được đăng ký và áp dụng trực tiếp theo Chuẩn mực kế toán Quốc tế hoặc được phép áp dụng trực tiếp một số chuẩn mực kế toán quốc tế – trước hết là chuẩn mực các công cụ tài chính.

Bước 2: Áp dụng hoàn toàn hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế

– Trước hết, có mốc thời gian sớm hơn (ví dụ, từ năm 2013, yêu cầu các DN niêm yết trên sàn chứng khoán, và các NHTM áp dụng hoàn toàn hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế).

– Đến năm 2018 (Đây là mốc thời gian được dự kiến hiện nay), áp dụng rộng rãi đối với tất cả các đơn vị kế toán, có thể ngoại trừ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Dung hòa hai trường phái của quản lý Nhà nước về lĩnh vực kế toán

Có hai trường phái trong quản lý Nhà nước về lĩnh vực kế toán, đó là: Khuôn khổ pháp luật về kế toán là “kế toán pháp lý” (yêu cầu doanh nghiệp phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc kế toán chung, thậm chí cả những quy định cụ thể và chi tiết do chính phủ áp đặt), và “kế toán ràng buộc pháp lý” (cho phép doanh nghiệp tuân thủ pháp luật tương đối – doanh nghiệp được lựa chọn trong các phương pháp kế toán, tổ chức công tác kế toán). Hệ thống chuẩn mực, thông lệ kế toán quốc tế một mặt tăng cường độ tin cậy, tính so sánh của số liệu kế toán, do đó thống nhất phương pháp, nguyên tắc xử lý kế toán đối với nghiệp vụ kinh tế tài chính, và hướng dẫn chi tiết hơn việc xác định giá trị hợp lý của tài sản tài chính, công nợ tài chính…; nhưng mặt khác tiếp cận theo quan điểm “kế toán ràng buộc pháp lý”, đưa ra những nguyên tắc, yêu cầu, hướng dẫn chung, mà không quy định chi tiết mẫu biểu báo cáo tài chính…, nhiều quốc gia cũng không quy định chi tiết hệ thống tài khoản, không quy định chi tiết mẫu biểu chi tiết sổ kế toán và mẫu biểu chứng từ kế toán….

Đối với ngành NH, hoạt động kế toán phải ứng dụng công nghệ hiện đại. Vì vậy, để việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế trong lĩnh vực NH có hiệu quả và khả thi cần có quan điểm “thông thoáng” hơn trong việc xây dựng chế độ, quản lý chuyên môn về lĩnh vực kế toán. Việt Nam nên thay đổi cách tiếp cận từ “kế toán pháp lý” sang “kế toán ràng buộc pháp lý”. Tất nhiên, quy định “thông thoáng” song vẫn đảm bảo những nguyên tắc cơ bản về kiểm tra, kiểm soát hoạt động kế toán của các đơn vị. Chẳng hạn, báo cáo giao dịch phải đủ để cho phép tái lập các giao dịch cá nhân/tổ chức để, nếu cần thiết, cung cấp bằng chứng cho việc truy tố hoạt động phạm tội. Hoặc từ bất kỳ số liệu chỉ tiêu nào trên báo cáo tài chính, có đủ cơ sở truy cứu đến số liệu của từng tài khoản chi tiết, đến từng giao dịch… để chứng minh tính chính xác, cập nhật, đầy đủ các giao dịch tại thời điểm lập BCTC, chứng minh sự minh bạch, trung thực của BCTC. Đồng thời, đủ cơ sở dữ liệu để xử lý mọi tranh chấp, kiện tụng giữa các bên trong giao dịch kinh tế.

Để hiện thực hoá giải pháp tổng thể áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế trong lĩnh vực NH, NHNN phối hợp với Bộ tài chính hoặc chủ trì khi được ủy quyền để đổi mới, hoàn thiện chế độ kế toán đối với các TCTD/ NHTM, hài hòa với chuẩn mực kế toán quốc tế và phù hợp với Việt Nam theo sáu giải pháp cụ thể sau.

Thứ nhất: Xây dựng lại hệ thống tài khoản kế toán đối với các tổ chức tín dụng

Hệ thống tài khoản đối với các TCTD cần phải được nghiên cứu, xây dựng lại để: (i) cấu trúc chung các tài khoản tổng hợp cấp 1 và cấp 2 “gần” hơn với hệ thống tài khoản kế toán chung đối với các doanh nghiệp theo QĐ 15/2006/BTC. Riêng danh mục các tài khoản tổng hợp cấp 3 (do Thống đốc quản lý) được bố trí phù hợp với đặc thù hoạt động của ngành NH, phù hợp với yêu cầu quản lý Nhà nước về hoạt động của NH; (ii) Ban lãnh đạo NHTM được quyền sử dụng hoặc không sử dụng nhóm tài khoản tổng hợp cấp 4/ cấp 5, được quyền chủ động trong mã hóa, đánh số hiệu tài khoản chi tiết. Tuy nhiên, cơ quan quản lý Nhà nước (BTC/ NHNN) phải quy định ngay trong hệ thống tài khoản những yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết nghiệp vụ mà TCTD phải báo cáo thống kê. Trên cơ sở đó, TCTD phải tính toán mở tài khoản tổng hợp hay dùng tham số thống kê nghiệp vụ/ mở tài khoản chi tiết riêng cho quá trình hạch toán kế toán của đơn vị mình; (iii) Sử dụng ký hiệu tiền tệ để phân biệt tài khoản kế toán theo từng loại đơn vị tiền tệ, hệ thống cho phép hạch toán đa tệ. Trong tất cả các tài khoản tổng hợp, không bố trí riêng biệt tài khoản ngoại tệ riêng, tài khoản VNĐ riêng, giảm mức độ cồng kềnh, phức tạp của hệ thống tài khoản, của BCĐTK; (iv) Bỏ nguyên tắc bắt buộc hạch toán đối ứng tài khoản từng loại ngoại tệ với ngoại tệ với nhau, nhưng đồng thời phải bỏ nguyên tắc “tài khoản ngoại bảng chỉ hạch toán đơn”; và bố trí những tài khoản ngoại bảng tổng hợp theo dõi trạng thái ngoại tệ của đơn vị NH từ những hợp đồng phái sinh tiền tệ.

Nguyên tắc kiểm tra sự chính xác đầy đủ, số liệu kế toán về ngoại tệ của NH cũng như giám sát trạng thái ngoại tệ, minh bạch sổ sách kinh doanh ngoại tệ của bản thân đơn vị NHTM, tách bạch với ngoại tệ trong quan hệ trung gian tài chính của NH với KH của NH sẽ có thay đổi:

– Tổng TSC ngoại tệ (+) trạng thái ngoại tệ nội bảng = tổng TSN ngoại tệ

– Trạng thái ngoại tệ nội bảng khớp với sổ sách của bộ phận kinh doanh ngoại tệ về mua/ bán giao ngay;

– Trạng thái ngoại tệ ngoại bảng trên sổ sách kế toán các tài khoản ngoại bảng phải khớp với sổ sách của bộ phận kinh doanh ngoại tệ về mua/ bán phái sinh tiền tệ.

– Tổng trạng thái ngoại tệ của NH = Tổng trạng thái ngoại tệ nội bảng (+) trạng thái ngoại tệ ngoại bảng.

Từ trước đến nay, hệ thống tài khoản do NHNN ban hành có thiết kế các cặp tài khoản trung gian (tài khoản kỹ thuật) để phản ánh trạng thái ngoại tệ của NH, để tính toán chênh lệch mua/ bán ngoại tệ, thuế GTGT phải nộp về kinh doanh ngoại tệ, để xác định chênh lệch tỷ giá. Quá trình hiện đại hóa NH, nhiều NHTM đã áp dụng phương pháp này và đã phát huy rất tốt, đảm bảo minh bạch sổ sách kinh doanh ngoại tệ của NH.

Ngoài danh mục các tài khoản tổng hợp đến cấp 3, các nguyên tắc chung, hệ thống tài khoản đưa ra quy định về tính chất, kết cấu, công dụng các tài khoản đồng thời với việc quy định ngay phương pháp, nội dung hạch toán các nghiệp vụ chủ yếu.

Hệ thống tài khoản kế toán mới chỉ cần phân chia tài khoản cho vay theo 3 tài khoản: Nợ lành mạnh; Nợ quá hạn/ nợ xấu; Nợ khó thu hồi, còn việc theo dõi trạng thái khoản vay/ xếp hạng tín dụng đối với KH vay (theo dõi chi tiết Nợ vay quá hạn theo các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau) để làm cơ sở tính, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, cũng như kiểm soát tổng quát nợ vay thực hiện theo phương pháp thống kê. Bởi vì, phân nhóm nợ và chất lượng nợ phụ thuộc cả thông tin định lượng và thông tin định tính. Bản chất thông tin này là thông tin thống kê nghiệp vụ tín dụng, không phải thông tin kế toán. Hiện nay, thông tin kế toán về phân loại nợ của những TCTD dựa trên yếu tố định lượng – thời gian quá hạn sẽ thiếu trung thực, là cơ sở không xác đáng của việc tính, trích lập dự phòng rủi ro. Để  có thông tin tổng hợp kịp thời về chất lượng nợ của toàn ngành NH một cách chi tiết hơn, NHNN phải yêu cầu TCTD tuân thủ tốt thông tin báo cáo thống kê.Việc làm này sẽ đơn giản hóa thủ tục chứng từ, xử lý số liệu kế toán, cụ thể: Không phải lập chứng từ, hạch toán bút toán nghiệp vụ mỗi khi khoản cho vay cần phải chuyển nhóm. Đồng thời việc phân loại nợ còn có thể được chi tiết, chính xác, cập nhật hơn.

Thứ hai: Về phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ

Áp dụng ngay được nội dung, phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ theo IAS/ IFRS. Để làm được như vậy, chế độ kế toán cần thống nhất với chế độ thuế GTGT đối với kinh doanh ngoại tệ, trong đó kết quả mua bán kinh doanh ngoại tệ được xác định theo nội dung của chuẩn mực IAS 39 và bao gồm 2 nội dung: (1) chênh lệch giá mua/ giá bán với mức giá chuẩn tham chiếu; (2) Chênh lệch đánh giá lại ngoại tệ. Việc đánh giá lại giá trị theo đồng tiền bản tệ có thể được đánh giá hàng ngày và ghi ngay vào thu nhập/ chi phí.

Hiện nay, chế độ kế toán do NHNN ban hành thống nhất với chế độ thuế GTGT đối với kinh doanh ngoại tệ, nhưng trong đó kết quả mua bán kinh doanh ngoại tệ được xác định theo nội dung của chuẩn mực 02 – Hàng tồn kho, bao gồm 2 nội dung: (1) chênh lệch giá mua/ giá bán với tỷ giá mua bình quân trong kỳ (tháng); (2) Chênh lệch đánh giá lại ngoại tệ được kết chuyển từ vốn chủ sở hữu vào thời điểm cuối năm.

* Về mua/ bán ngoại tệ giao ngay, áp dụng ngay phương pháp kế toán theo IAS/ IFRS;

* Về mua/ bán các công cụ tài chính phái sinh về ngoại tệ:

– Áp dụng nguyên tắc chung thống nhất với phương pháp nền tảng của IAS 39 như sau:

+ Phân loại là công cụ tài chính kinh doanh;

+ Ghi nhận ban đầu theo giá gốc;

+ Ghi nhận tiếp theo: Theo giá trị hợp lý, chênh lệch phát sinh giữa giá trị ghi sổ và giá trị hợp lý xác định lại được ghi vào thu nhập/ chi phí.

– Tuy nhiên, giá trị hợp lý đối với các công cụ phái sinh ngoại tệ ở đây là giá trị nào, xác định theo mô hình nào là vấn đề thuộc về kỹ thuật và không ảnh hưởng nhiều đến số liệu kế toán, không khác biệt về mặt bản chất, nhưng lại liên quan đến công nghệ kế toán bị chi phối ở yếu tố lịch sử và khả năng tài chính của mỗi đơn vị kế toán. Chế độ có thể cho phép đơn vị kế toán lựa chọn một trong 2 phương pháp sau:

+ Phương pháp thứ nhất: là phương pháp như chế độ hiện hành.

+ Phương pháp thứ hai: Giá trị hợp lý được xác định trên cơ sở tỷ giá giao ngay; thời gian còn lại của hợp đồng; mức lãi suất tham chiếu (Reuters/ Bloomberg) của từng loại tiền tệ.

Trong 2 phương pháp trên, khuyến khích các đơn vị áp dụng ngay phương pháp thứ 2 vì phương pháp này tuân thủ tuyệt đối theo IAS/ IFRS và đồng bộ với các mặt nghiệp vụ khác của NH.

Thứ ba: Về kế toán nghiệp vụ kinh doanh, đầu tư chứng khoán

Hoàn thiện chế độ kế toán nghiệp vụ kinh doanh, đầu tư chứng khoán tại TCTD theo nội dung cụ thể sau:

KD/ Đầu tư CK  

Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IAS

39)

 

 

Khuyến nghị

Phân loại Phân loại tương tự như quy định của

NHNN.

Không.
Ghi nhận ban đầu Theo giá trị hợp lý. Chênh lệch giữa giá mua và giá trị hợp lý (chiết khấu/phụ trội) sẽ được ghi nhận vào thu nhập/chi phí kinh doanh trong kỳ. TCTD có thể xác định giá trị hợp lý của các chứng khoán đầu tư dựa trên những cơ sở sau:

Giá niêm yết trên thị trường;

Giá  giao  dịch  gần  nhất  của những nghiệp vụ tương tự; hoặc

Giá  tính  toán  bằng  các  kỹ thuật định giá như chiết khấu luồng tiền,

Ghi nhận tiếp theo Chứng khoán kinh  doanh và  chứng khoán sẵn sàng để bán: theo giá trị hợp lý.

Chứng khoán giữ  đến  khi đáo hạn: theo giá trị phân bổ. Giá trị phân bổ được tính bằng giá vốn cộng lãi dự thu sử dụng phương pháp lãi suất thực trừ dự phòng giảm giá (nếu có).

Tăng/giảm giá trị hợp lý được hạch toán vào thu nhập/chi phí trong kỳ đối với chứng khoán kinh doanh và quỹ dự trữ đầu tư tài chính sẵn sàng để bán đối với chứng khoán sẵn sàng để bán.

Chế độ cần có quy định cụ thể về tài khoản hạch toán nghiệp vụ mua lại chứng chỉ tiền gửi/ trái phiếu… do chính TCTD phát hành. Theo đó, chế độ phản ánh đúng bản chất nghiệp vụ: Phân biệt hợp đồng mua và bán lại (repo) với nghiệp vụ chứng chỉ tiền gửi được “mua lại hẳn”. Đối với nghiệp vụ chứng chỉ tiền gửi được “mua lại hẳn” phải được ghi nhận như một khoản giảm trừ phần nguồn huy động. Do vậy, việc hạch toán phải cung cấp đầy đủ thông tin phục vụ công tác lập báo cáo tài chính như gốc mua lại, giá trị phụ trội, lãi dự thu,…

Chế độ cũng phải quy định TCTD cần có những tài khoản hạch toán riêng theo dõi thông tin chi tiết về chứng chỉ tiền gửi mua lại. Trên cơ sở đó, đưa ra những bút toán điều chỉnh cho việc lập báo cáo tài chính.

Chế độ quy định và hướng dẫn cụ thể những trường hợp chứng khoán được phép thay đổi, phân loại nhóm lại sau khi ghi nhận ban đầu theo đúng tinh thần của IAS 39.

Thứ tư: Hoàn thiện chế độ kế toán nghiệp vụ tín dụng

Trước hết các khoản cho vay được phân thành hai loại: không có dấu hiệu giảm giá và có dấu hiệu giảm giá cần xem xét trích lập dự phòng cụ thể. Các dấu hiệu giảm giá nêu tại IAS 39 bao gồm cả yếu tố định tính và định lượng, khá tương đồng với quy định tại Điều 7 của Quyết định 493.

Phân biệt dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Theo đó chỉ có dự phòng cụ thể là dự phòng cho từng khoản vay và dự phòng đánh giá theo nhóm cụ thể mới được hạch toán vào chi phí. Đối với dự phòng chung, thực hiện theo IAS 39: Không cho phép trích lập dự phòng chung vào chi phí trong kỳ do dự phòng chung được trích lập cho những tổn thất chưa xác định và do vậy, không đáp ứng các tiêu chí của chi phí.

Thay đổi phương pháp tính toán dự phòng rủi ro cụ thể theo IAS 39: Xác định giá trị hợp lý của khoản vay bằng phương pháp chiết khấu luồng tiền. Lập dự phòng cho phần chênh lệch thấp hơn giữa giá trị hợp lý và giá trị sổ sách của khoản vay.

Thay đổi chế độ hiện hành về dự thu lãi của các khoản cho vay. Khoản vay được phân loại nợ nhóm 3 trở đi mới dừng tính lãi dự thu. Tại thời điểm, khoản nợ được phân loại nợ nhóm 5 “Nợ có khả năng mất vốn” thì khoản lãi đã dự thu nhưng chưa thu (nếu có) của khoản vay sẽ được tất toán hạch toán đối ứng vào chi phí khác. Chế độ hiện hành, quy định nợ nhóm 2 đã phải dừng tính lãi dự thu, và tất toán ngay lãi đã dự thu là quá thận trọng, chưa hợp lý.

Do hệ thống xử lý tự động, thông tin được cập nhật thường xuyên, việc phân loại nợ để làm cơ sở tính toán, trích lập dự phòng cần được thực hiện vào thời điểm lập BCTC  (Tháng/  Quý/  năm).  Theo  Quyết  định  số  493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 do Thống đốc NHNN ban hành (thay thế Quyết định 488/2000/QĐ- NHNN) Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của TCTD, thì báo cáo tài chính năm của tổ chức tín dụng sẽ không ghi nhận chính xác thực trạng tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh của TCTD tại thời điểm cuối năm tài chính (ngày 31/12 của năm), bởi vì căn cứ tính trích lập là số dư của các tài khoản cho vay nợ đủ tiêu chuẩn, nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn ở thời điểm 30/11 của năm. Sự thay đổi mức độ rủi ro tín dụng, do đó thay đổi dự phòng rủi ro cần phải trích trong khoảng thời gian từ 1/12 đến 31/12 không được phản ánh. Vậy QĐ số 493 cần được sửa đổi, trong đó riêng Quí IV của năm, cuối ngày 31/12, TCTD cần rà soát, phân loại lại nợ vay, xử lý khi có sự thay đổi mức độ rủi ro tín dụng và theo đó là thay đổi dự phòng rủi ro phải trích trong hoạt động của NH.

Thứ năm: Xây dựng và quy định chế độ nghiệp vụ phát hành trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi

* Kế toán nghiệp vụ trái phiếu chuyển đổi

Áp dụng đúng yêu cầu, phương pháp theo IAS 39. Khi phát hành trái phiếu chuyển đổi, căn cứ vào các điều kiện, tỷ lệ được phép chuyển đổi để phân tách thành khoản mục Nợ phải trả và Vốn chủ sở hữu (thuộc bộ phận vốn khác). Sau khi ghi nhận lần đầu, tổ chức phải đánh giá lại các khoản nợ tài chính theo chi phí phân bổ bằng việc áp dụng phương pháp lãi suất thực (việc hạch toán chi trả lãi trên cấu phần Nợ phải trả hoàn toàn theo nguyên tắc kế toán thông thường).

* Kế toán nghiệp vụ phát hành cổ phiếu ưu đãi

Cổ phiếu ưu đãi là công cụ tài chính phức hợp, về bản chất được phân tách thành 2 bộ phận: Cấu phần nợ và cấu phần vốn chủ sở hữu. Chế độ cần quy định và hướng dẫn cụ thể việc tính toán, phân tách này theo đúng yêu cầu, phương pháp của IAS 39. Khi phát hành cổ phiếu ưu đãi, căn cứ vào các điều kiện, tỷ lệ được hưởng lãi theo mức lãi suất cố định để phân tách thành khoản mục Nợ phải trả và Vốn chủ sở hữu (thuộc bộ phận vốn khác). Sau khi ghi nhận lần đầu, tổ chức phải đánh giá lại các khoản nợ tài chính theo chi phí phân bổ bằng việc áp dụng phương pháp lãi suất thực, mức lãi suất thị trường tại thời điểm phát hành cổ phiếu ưu đãi: Tổng số – phần nợ = phần vốn;

Định giá vốn + định giá nợ = tổng giá trị.

Thứ sáu: Hoàn thiện chế độ BCTC đối với các TCTD

Cần bổ sung thêm thông tin mà TCTD phải thuyết minh trên BCTC (i) Thông tin về kết quả kinh doanh theo bộ phận;

(ii) Thuyết minh chi tiết thông tin kết quả kinh doanh ngoại tệ, trong đó tách biệt chênh lệch giá bán, giá mua; và kết quả từ chênh lệch tỷ giá đánh giá lại do biến động tỷ giá thị trường.

(iii) Thuyết minh những thay đổi giá trị của chứng khoán sẵn có để bán trong trường hợp tổn thất, những kết quả của việc bán chứng khoán trước khi đến hạn thuộc loại chứng khoán nắm giữ đến hạn thanh toán và việc lập dự phòng rủi ro đối với chứng khoán nắm giữ đến hạn thanh toán.

[feat_text title=”Bài Viết Cùng Serial : Giải pháp hiện đại hóa hoạt động NHTM VN” icon=”screen”]
  1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế cho hoạt động ngân hàng
  2. Phát triển hệ thống tài chính ngân hàng thương mại Việt Nam
  3. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin ngân hàng thương mại
  4. Tạo lập môi trường văn hoá kinh doanh hiện đại trong ngân hàng
  5. Giải pháp phát triển chiến lược kinh doanh ngân hàng
  6. Thiết lập cơ cấu tổ chức phù hợp cho ngân hàng
  7. Phát triển nguồn nhân lực hệ thống ngân hàng
  8. Giải pháp nâng cao năng lực tài chính hệ thống ngân hàng
  9. Tăng cường quản trị rủi ro hệ thống ngân hàng thương mại
  10. Phát triển công nghệ hệ thống ngân hàng thương mại
[/feat_text]

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế cho hoạt động ngân hàng

5/5 - (100 Bình chọn)

Báo giá dịch vụ viết thuê luận văn

Luận Văn A-Z  nhận làm trọn gói dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Liên hệ ngay dịch vụ viết thuê luận văn của chúng tôi!

UY TÍN - CHUYÊN NGHIỆP - BẢO MẬT

Nhận báo giá Xem thêm
Bạn cần hỗ trợ?